Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện

17 Tháng Mười Một 201611:10(Xem: 8770)
Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện
Ý NGHĨA CỦA SỰ CẦU NGUYỆN 

Thích Viên Giác

Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện

 

I. LỜI MỞ ĐẦU
Cầu nguyện
 là một nhu cầu tinh thần của con người, một nhu cầuchính đáng. Trước hết là giải toả các ức chế tâm lý do áp lực củahoàn cảnh, của thất vọng trong tình cảm, những bức xúc trong các mối quan hệ xã hội. Thứ đến cầu nguyện là thể hiện các ước mơ, niềm hy vọng của con người về đời sống hiện thực hay lý tưởng, dù sao cầu nguyện vẫn là một biểu hiện của thiện tâm, nghĩa là khi một người chấp tay, cúi đầu trước bàn thờ Phật, Thánh, lòng họ trở nên khiêm hạ, cái ” Ta” trở nên nhỏ bé, lương tâm thổi dậy và tâm hồn họ được bình hoà.

Sự cầu nguyện trong đạo Phật còn là một pháp môn tu tập của người phật tử, nhờ cầu nguyện mà nguyện lực của họ mạnh mẽ,niềm tin tăng trưởngthiện nghiệp được phát huy, ác nghiệp được tiêu trừ, tâm xu hướng lộ trình giải thoát.

Trong ý nghĩa thông tục, cầu nguyện là một biểu hiện lòng nhớ ơn, đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân… một biểu hiện của tình thương yêu, quan tâmlo lắng đến nhau như các cầu nguyện: cầu siêu,cầu ansám hối …

Sự cầu nguyện ban đầu như là biểu hiện của sự lo lắng vị kỷ, nhưng dần dần do bản chất của sự cầu nguyện sẽnâng cao tinh thần vị tha. Những lời khấn nguyện, niệm hương, bạch Phậtphục nguyệnhồi hướng, trong đạo Phật đều mang tính 2 mặt cho mình và cho chúng sinh. Nghĩa của sự cầu nguyện là nâng cao đời sống tinh thầnvà củng cố niềm tin cho chính mình và tha nhân.

II. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN

Hình thức cầu nguyện, khái quát gồm 4 loại: cầu siêu, cầu an, cầu sám hối, cầu tiến bộ tâm linh:

1. Cầu siêu: là cầu nguyện cho ông bà, cha mẹthân quyến đã qua đời được siêu thoát, được an lành thế giới bên kia. Như vậy cầu siêu là biểu lộ sự quan tâmlo lắng, sự thương yêu giúp đỡ cho người thân của mình. Sự quan tâm đối với người đã chết không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện. Nhu cầu và thực hành cầu siêu nói lên nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo vừa nhân bản vừa rộng rãichấp nhận ngoài thế giới hiện thực này còn cóthế giới khác mà ta gọi là vô hình.

2. Cầu an: là cầu nguyện cho người thân của mình hoặc chính bản thân mình được an lànhvượt qua các tai ương hoạn nạn. Vậy cầu an cũng thể hiện mối quan tâm lo lắng và thương yêu giúp đỡ cho tha nhân, nhất là trong lúc mình không làm được gì khác hơn là cầu nguyện. Nhu cầu cầu an cũng nói lên tinh thần đạo đức của ngườiphật tử khi đứng trước nổi bất hạnh của kẻ khác.

3. Cầu sám hối: Là cầu nguyện cho những lỗi lầm vụng dại của mình đã làm không còn tái diễn nữa, bày tỏ sự hối hận ăn năn, mong sự chứng giám và tha thứ của các đấng thiêng liêng hay cả của những người mà mình đã gây khổ cho họ. Có khi người ta cũng cầu sám hối giúp cho người thân của mình. Nhu cầu sám hối nói lên tiếng nói của lương tâm, của đạo đức và của trí tuệ.

4. Cầu tiến bộ tâm linh: Là cầu nguyện cho tâm hồn của mình được phát khởi thiện tâm, phát huy được trí tuệ vượt qua nghiệp chướngma chướng để sớm thành tựu được mục tiêu giải thoát của mình. Nhu cầu cầu nguyện tâm linh tiến bộ nói lên tinh thần quyết tâm cầu tiến, nói lên ước vọng tìm kiếm chân lý của ngườu phật tử.

Tóm lạimục đích cầu nguyện là mang đến lợi ích cho kẻ chết, người sống, đem đến thiện pháp tăng trưởngác pháp tổn giảm, tâm lực củng cốniềm tin vững chãi hơn.

III. ĐỐI TƯỢNG CẦU NGUYỆN

Tùy theo niềm tin tôn giáotín ngưỡng mà có các đối tượng cầu nguyện khác nhau. Đối với người phật tử, đối tượng cầu nguyện căn bản là Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) cụ thể thì các Đức Phật Bổn Sư, Phật Di Đà, PhậtDược SưPhật Di Lặc, các vị Bồ tát, thánh hiền… Đối tượng cầu nguyện dân gian thì có tổ tiênthần thánh (thánh mẫu, quan công…) ông bà cha mẹ đã qua đời, các linh hồn vất vưởng cho đến các gốc cây, cụa đá hay các sinh vật như cọp beo… Tóm lại tất cả mọi thứ nếu được coi là thiêng liêng.

Người phật tử chân chính chỉ cầu nguyện đối với Tam bảo, các Đức Phật, các vị Bồ tátThánh Tăng. Những Phật tử chưa thuần thục đạo pháp họ vừa cầu Phật, vừa cầu thần, nếu cần họ có thể cầu luôn cỏ cây, đá núi… NhữngPhật tử như thế Đức PhậtBồ tát đối với họ không khác các vị thần bao nhiêu.

Vì lý do là đối tượng của cầu nguyện nên Đức Phật Bồ tát mang sắc thái thần thánh đầy quyền năng, không ai coi Phật, Bồ tát là người bình thường, nên đối tượng của cầu nguyện là mang tính thiêng liêng. Đã là đối tượng linh thiêng thì ranh giới giữa đối tượng này với đối tượng kia về bản chất tâm lý hầu như không có, tất cả đều bình đẳng. Đối tượng được coi là linh thiêng thường là không hiện thực, nhưng đầy quyền năng siêu việt. Nếu một đối tượng linh thiêng mà hiện thực thì sớm muộn gì cũng bị bỏ quên và bị bôi bác bởi chính con người thờ họ. Một người khi cha mẹ còn sống họ đối xử bình thường đôi khi coi thường nữa, nhưng khi cha mẹ mất đi họ trở nên tôn trọng cung kính rất đặt biệt, họ thể hiện niềm tôn trọng ấy băng nhiều cách để gọi là có hiếu, họ than thở, tiếc nuối ân hận… Nếu cha mẹ họ nghe lời khấn nguyện của họ mà xúc độngsống lại thì họ vẫn đối xử như xưa .

Đối tượng của cầu nguyện, tuỳ theo trình độ văn hoá, phong tục, tập quán, tôn giáotín ngưỡng mà khác nhau, đó là một thế giới muôn màu muôn vẻ. Dù sao đã là đối tượng của cầu nguyện thì phải linh thiêng, phải hoàn hảo,quyền năng vô tận và có tác dụng ảnh hưởng đến tâm thức của người cầu nguyện.

IV. TÁC DỤNG CỦA CẦU NGUYỆN

Có người cho rằng cầu nguyện là vô ích, không có tác dụng gì, làm sao có tác dụng được khi lạy lục cầu xin trước một pho tượng bằng đất, đá, xi măng, gỗ …? Nghĩ như vậy quá duy lý. Tượng Phật, Tượng thánh chắc chắnkhông phải ông Phật thực mà đó chỉ là tượng trưng hay biểu tượng (symbolizes). Điều quan trọng là yếu tố tinh thần đằng sau pho tượng và trong tâm thức của người cầu nguyện. Không ai lại khờ khạo lạy lục cục đá hay gốc cây cả, chẳng qua là cục đá hay gốc cây ấy có giá trị biểu tượng thiêng liêng ở đằng sau. Khi ta nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ tổ quốc không phải là ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa tinh thầnmà tấm vải đeo mang. Khi một vật thể là vật chất nhưng trở thành đối tượng thiêng liêng thì nó không còn thuần tuývật chất nữa mà thành đối tượng có sức sống, có tác dụng đối với con người và hoàn cảnh xung quanh.

1. Tác dụng của cầu siêu: Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo phù hộ cho linh hồn đã mất được nhẹ nhàng siêu thoátở thế giới bên kia cầu được sinh về cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà cầu như vậy có siêu không?

Ở trong kinh Địa Tạng có đề cập đến tác dụng kinh cầu nguyện cho người chết rằng: Khi tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện thì công đức có được 7 phần, người tụng được sáu, người chết được một phần. Tại sao người được cầu nguyện chỉ được một phần? điều dễ hiểu là khi tụng kinh Tam nghiệp thanh tịnhcông đức phát sinh năng lực công đức có trước hết là người tụng, rồi sử dụng năng lượng công đức ấy hướng đến người đã chết tất nhiên người chết sẽ nhận được một, phần năng lượng ấy, trong khi người tụng là người suất sinh công đức.

Trong kinh Vu Lan đề cập đến sức mạnh chú nguyện của chư Tăng, nhờ sức mạnh của Tăng lực mà bà Thanh Đề thoát khổ, năng lượng của Tăng là năng lượng tập thể nên có tác dụng lớn, nó tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ vào tâm thể của bà Thanh Đề làm cho bà thay đổi tận gốc rễ nghiệp bất thiện của mình mà thoát khổ. Trong kinh Địa Tạng cũng đề nghị phương pháp giúp cho người chết thoát khổ bằng cách xử dụng tài sản của họ vào việc công ích bố thícúng dường hồi hướng công đức cho họ sẽ được lợi ích lớn. Tất cả những điều diễn tả trong kinh muốn nói lên một sự thực rằng nếu xử dụng năng lượng tâm linh đúng chánh pháp sẽ tạo khả năng biến chuyển hay thay đổi tâm thức và đời sống của một chúng sinh đau khổtrường hợp bà Thanh Đề là một ví dụ.

Cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn có ý nghĩa bày tỏ lòng tri ân và báo ân đối với các bậc Tiền nhân đã sinh ra vànuôi dưỡng mình nên người. Sự biết ân và báo ân là một đức tính tốt, hiền thiện, là đạo đức xã hội, là một nét văn hoá văn minh của loài ngườiCon người nếu không biết cội nguồn của mình, không biết ơn, nghĩa thì người ấy sẽ chết mất gốc; quá khứ không rõ ràng thì tương lai sẽ mờ mịtCầu nguyện cúng bái ông bà cha mẹ mong cho họ được siêu thoát là bài học về giáo dục đạo đức quan trọng: sự hiếu thảo của con cái, sự kính trọng người già cả, sự khiêm tốn thương yêu nhau đều tuy thuộc vào các sinh hoạt tinh thần mang tính truyền thống cao đẹp này.

2. Tác dụng của cầu an: Cầu nguyện cho mình hay người thân của mình được bình an là một cách thển hiện sựthương yêu, là một nhu cầu khẩn thiết. Nhưng cầu như vậy có hiệu quả không? Người xưa nói: ” Linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Khi ta có niềm tin ta sẽ có sức mạnhSức mạnh tinh thần ấy gọi là năng lượng tâm linh, nếu ta cố ýchuyển năng lượng tâm linh ấy đến một người nào đó thì có tác dụng ảnh hưởng vào người ấy, đó là điều khó tin nhưng có thực. Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác, giữa tâm linh và thế giới khách quan là mối quan hệ duyênsinh tương tác lẫn nhau. Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hoá đến vật chất hay sinh vật, các vị thiền sư có thể cảm hoá hổ báo hung dữ, ngay cả loài thảo mộc nếu được thương yêu chúng cũng tươitốt hơn, đã có nhiều cuộc thí nghiệm của các nhà khoa học để chứng minh cho sức mạnh tinh thần này. Theo phong tục dân gian, khi người gia chủ qua đời thì người ta “để tang” cho cây cối xung quanh nhà bằng cách cột một mảnh vải trắng lên cành cây với hy vọng rằng cây sẽ bớt đau dớn mà khô héo. Điều đó có vẻ huyền hoặc nhưng được đúc kết từ kinh nghiệm dân gian rằng đã từng có cây cối khô héo và chết khi chủ nhân của nó qua đời, khi người chủ còn sống thương yêu săn sóc cây cối, hằng ngày ông ta phóng ra từ trường nhân diện haynăng lượng tâm linh vào cây cối, chúng quen sống với luồn điện từ như vậy, nay đột ngột mất đi chổ dựa ấy nhưcon người mất đi chổ dựa tình cảm, sẽ cảm thất hụt hẫng lạnh lùng… Cần phải có một sự quan tâm, một thay thế dòng sóng từ trường mới, đó chính là hành động của người chủ nhân kế thừa, nên có vấn đề để tang cho cây cối.

Khi một người phóng ra một năng lượng tâm linh qua sự tập trung cầu nguyện, luồng năng lượng ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh, bị tai nạn hay đối tượng được cầu nguyện. Người phát ra mộtnăng lượng tâm linh mà năng lượng ấy thuộc xu hướng nào nó sẽ tạo một hấp lực thu hút luồng năng lượng tương ứng trong không gian (có thể gọi là năng lượng của các Đức Phật hay Bồ tát) mà ta gọi là tha lực. Tuy theo sự tương tác ở mức độ nào mà khả năng, hiệu quả lớn hay nhỏ. Trong đời sống hằng ngày ta thường gặp nhau và chúc lẫn nhau “mạnh khoẻ” ” bình an” ” hạnh phúc”… nếu những lời chúc ấy có chú tâm, có thành tâm, có nhất tâmnó sẽ tạo ra năng lượng lành mạnh giúp ích cho người đươọc chúc.

Cầu nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích cực của từ bivị tha, do đó tạo nên “đức độ”. Tâm ta càng xu hướng về vô ngã vị tha thì mối tương tác (cảm ứng) giữa tâm ta và tâm PhậtBồ tát (tha lực) sẽ chặt chẽ, do đó tác động mạnh đến người hay hoàn cảnh mình cần nguyện. Đó là sức mạnh vô hình nhưng có thực. Dĩ nhiên không phải ai cầu cũng ứng, cũng được an. Mọi tác dụng cảm ứng đều có điều kiệnnhân duyên có đủ hay không; một ngọn lửa bùng cháy phải đủ các điều kiện cho sự cháy, vậy không nên coi cầu an là phương pháp tối thượng mà chỉ là một “trợ duyên” Điều quan trọng vẫn là “nội lực” hay “nghiệp lực”. Cầu an đúng nghĩa là chuyển hoá nghiệp lực bằng cầu nguyện đó là mặt tiêu cực, còn mặt tích cực thì phải xây dựng một tâm đức bằng bố thí,phóng sanhcúng dường Tam bảo, giúp đỡ tha nhân… như vậy là tích cực chuyển hoá nghiệp lực, cần cả hai mặtnhư vậy kết quả mới tốt đẹp.

V. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẦU NGUYỆN TRONG ĐẠO PHẬT

Trong kinh Trung A Hàm I, Kinh Ca Di NiĐức Phật nói về sự vô ích trong cầu nguyện đối với một số trường hợpnhư sau: “Có những người phạm chí tự cho mình có khả năng cầu nguyện, giúp cho người khác được sinh lên cõi trờiĐức Phật bác bỏ lời tuyên bố ấy, Ngài đưa ra một số trường hợp như: một người hung dữ, độc ác, luôn làm 10 điều ác. Người này sai khi chết được nhiều người tập trung lại cầu nguyệnvan xin thì cũng không thể lên cõi trời được. Giống như một người ôm một tảng đá lớn ném xuống sông rồi nhiều người khác tập trung cầu nguyệnvan xin “mong tảng đá nổi lên”, điều đó không thể được. Ngược lại một người làm 10 điều thiện sau khi người ấy chết, nhiều người tập trung cầu nguyện van xin “mong anh ta vào địa ngục” điều đó không thể xảy ra. Giống như một người ôm một thùng dầu đổ xuống sông, nhiềi người tập trung cầu nguyện “mong cho dầu chìm xuống đáy sông” điều đó không thể có được.

Như vậy giới hạn của sự cầu nguyện rất rõ: cầu nguyện không phải muốn gì được nấy, không phải là xin ơn trênthoả mãn các yêu cầu bất thiện của mình hay các niềm hy vọng của mình. Cầu nguyện về mặt tâm lý giải toả cácức chế nội tại, một tình trạng bức xúc cao độ, sự tuyệt vọng rất là nguy hiểm, cầu nguyện sẽ làm giảm áp lực ấy. Mặt khác cầu nguyện là bày tỏ những ước mơ, những hy cọng tạo nên khích lệ tinh thần tăng thêm sinh lực chocon người vốn gặp nhiều đau khổ.

Điều chính của sự cầu nguyện trong đạo Phật đó là sự chuyển hoá nghiệp lực. Nếu mình tạo tác ác nghiệp thì cầu nguyện là vô íchcầu nguyện theo hướng chuyển ác thành thiện thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến khích chấp nhận.

Thông thường khi nói đến cầu nguyện ta thường nghĩ là nhờ đến tha lực của Phật, Thánh… nhưng cầu nguyệntrong Phật giáo không phải thuần tuý nhờ vào tha lực mà nhờ vào tự lực là chính, cho nên câu nói: “Linh tại ngã bất linh tại ngã” diễn tả đúng ý nghĩa này.

Tại sao có người cầu nguyện linh ứng, người khác lại không? Điều đó tuỳ thuộc vào tự lực hơn là tha lực. Không phải Phật không thiêng mà chính là “tự lực” chưa đủ, nói cách khác lòng thành kính, sự thành tâmnhất tâm vànghiệp lực chưa đủ. Khi một người niệm Phật cầu nguyện vãng sanh cực lạc thế giới, nhưng niệm lực không đủ thì Phật không tiếp dẫn được. Trong kinh A Di Đà nói rõ: “Nếu có chúng sinh trước khi lâm chung mà niệm từ một cho đến mười niệm trong trạng thái” nhất tâm bất loạn” thì liền vãng sanh cực lạcChứng tỏ cầu nguyện vẫn dựa vào“tự lực” là chính.

VI. KẾT LUẬN

Cầu nguyện là một nhu cầu làm lắng dịu nỗi lo âusợ hãi phiền muộnthất vọngCầu nguyện cũng là một cách thể hiện những ước mơ thầm kín, niềm hy vọngniềm tin vào cuộc sống. Qua các phương cách và đối tượng cầu nguyệncon người có thể bày tỏ được niềm thương, nỗi nhớ sự biết ơn và báo ơn đối với ông bà cha mẹ, những người thân thuộc… Như vậy cầu nguyện là một loại hình văn hoá đem lại niềm tincủng cố đạo đức, thuần hoá tánh hung dữ của con người.

Hơn nữa, cầu nguyện làm tăng thêm nghị lựccủng cố niềm tin để hướng dẫn đời mình đi theo chân lýlý tưởngcao thượng.

Khi con người chưa làm chủ hoàn toàn thân tâm chưa vượt qua được những nỗi lo âusợ hãi, chưa đạt đượctrình độ tu chứngtự tại vô ngại thì cầu nguyện có tác dụng hổ trợ cho mình vững tiến trên đường đạo. Chỉ cần có sự thành thậtthành tâm và mục đích hướng thượng, hướng thiện thì sự cảm ứng của Phật lực… chắc chắn xảy ra. Điều cần thận trọng là đừng rơi vào cuồng tíncực đoanỷ lại. Nếu cầu nguyện không đúng chánh pháp haylạm dụng cầu nguyện để thực hiện tham vọng riêng tư thì không những không linh ứng mà còn phản tác dụng, tạo thêm ác nghiệp./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2061)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2250)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2518)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2548)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2082)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2534)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1871)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1965)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2252)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2779)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1690)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1609)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1795)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1630)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2204)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2363)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2081)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1858)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1781)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1968)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1704)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2684)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1843)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2178)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2144)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2490)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1801)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1985)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1863)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2038)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2610)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3665)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2282)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2289)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1664)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1978)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2314)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2311)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2152)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3111)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2127)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2529)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2046)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1979)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2184)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2475)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2051)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2445)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2407)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2995)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant