Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoằng PhápPháp Sư

23 Tháng Mười Hai 201619:57(Xem: 6406)
Hoằng Pháp – Pháp Sư

Hoằng PhápPháp Sư


Hòa Thượng Thích Giác Viên

Sáng nay, thứ Năm ngày 22 tháng 12 năm 2016, tôi đang hoằng Pháp tại một thành phố mưa nhiều Seattle, tiểu bang Washington. Sau những bổn phận buổi sáng của nhà Sư xong, tôi vào thư phòng, thưởng thức một tách trà nóng, xem xét các email xong, thì vô tình vào trang Phật pháp Hoa Vô Ưu , đọc được một bài của Hoà Thượng Thích Như Điển “Pháp học và Pháp hành theo kinh tạng Nam và Bắc Truyền”. Trong 70 năm cuộc đời, tôi có kim chỉ Nam trong cuộc sống, không phải chuyện của mình, chuyện của người ta thì không để ý đến. Nhưng rồi chợt nhớ  Đạo từ của Ngài Trưởng Lão Đệ Tam Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ khuyên nhủ các vị Pháp sư đời này mà tôi rất tâm đắc nên thành thử phải viết vài ba hàng cho lần đầu và cũng là lần cuối để bổ túc thêm bài của HT Thích Như Điển và phổ biến Đạo từ của Ngài.

Kỹ thuật tân tiến về thông tin điện tử hiện nay đã làm công việc hoằng Pháp được đơm hoa trổ trái rất nhiều, nhưng không biết hoa gì và trái gì đây, hoa thật hay hoa giả, trái thật hay trái giả, bề trái của cái huy chương này chúng ta cũng cần phải suy nghiệm lại. Thời Đức Thế Tôn trong kinh thường nói “binh khí của miệng lưỡi”, bây giờ theo tôi nghĩ là “binh khí của mạng lưới”. Vì có một số tự xưng là xuất gia, không biết tứ nhiếp pháp là gì, lợi dụng phương tiện này khen mình chê người dùng những ngôn từ mà người không tu còn không dám viết hay nói.

Sau đây, tôi xin kể lại một câu chuyện hoằng Pháp của tôi và sau đó kết thúc bằng Đạo từ của Đức Trưởng Lão Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ.

Cách đây khoảng hai năm, trong một buổi Pháp đàm ngày thọ bát quan trai hằng tháng, có một nhóm nữ Phật tử khá lớn tuổi đưa tay xin thưa rằng: tháng qua chúng con có đi nghe Pháp và nghe vị Pháp sư giảng như thế này, làm tâm chúng con bị giao động và không biết con đường chúng con theo Thầy tu học Tịnh độ trên hai mươi mấy năm có đúng đường không? (Sau khi tìm hiểu, vị Pháp sư trẻ trên bốn mươi mấy tuổi này khá nổi tiếng, có đủ các loại bằng cấp của thế gian và hình như có quan hệ khá lớn với chính quyền Việt Nam hiện tại. Trên youtube hoặc trên mạng những bài thuyết giảng của vị này và các vị Pháp sư trẻ có, già có đã phá về pháp môn Tịnh độ, chê bai kinh điển Đại thừa là ngụy kinh, phỉ báng các phương tiện cúng tế, được phổ biến rất rộng rãi. Trong khi đó, dưới thời Đức Thế Tôn, Ngài chưa hề đả phá và phỉ báng một ngoại đạo nào cả).Tôi xin tóm tắt 3 lời giảng của vị Pháp sư này:

1/ Làm gì có cõi Cực lạc, Tịnh độ ngay đây và hiện tại (nói một cách khác là bây giờ và ở đây), kinh A Di Đà là ngụy kinh.

2/ Kinh Điạ Tạng là do các ông Thầy Tàu bịa ra để hù người ta cúng kiến, làm gì có cõi địa ngục.

3/ Sau khi chết là đi ngay, không cần phải cúng kiếng 49 ngày, làm gì có thân trung ấm.

Trong các buổi Pháp đàm tôi thường mời các giới tử thiện trí thức thay tôi trả lời giùm rồi đại chúng cùng thảo luận để học với nhau, thông thường tôi chứng minh tán thán hay thêm thắt và hướng dẫn cho đúng câu trả lời. Trong lúc chờ cho các giới tử chuẩn bị trả lời, cá nhân tôi lúc đó nghĩ rằng: lịch sử luôn luôn tái diễn, sự chống đối cái vụ ngụy kinh này xưa hơn cả ngàn năm rồi, từ Trung Hoa qua Việt Nam và bây giờ lại tái diễn. Âu cũng là nghiệp vận của Phật giáo “trong thời kỳ Pháp đang đi xuống này”. Tôi chưa kịp mời thì có một vị nam Phật tử lớn tuổi đưa tay xin trả lời, tôi liền mời (vị ấy là một cựu quân nhân trong quân đội miền Nam, đi học tập cải tạo trên 12 năm và định cư theo diện HO). Vị ấy đứng dậy và nói rằng:

Bạch Thầy và thưa đại chúng, theo con nghĩ vị Pháp sư này có ý gì đây:

Thầy từng dạy chúng con, tam tạng kinh điển thì rất nhiều, nhưng chư Phật ba đời thường dạy 3 câu cốt lũy để tu học: Nguyện tránh làm các điều ác, Nguyện luôn làm các việc lành, Nguyện tâm trí được trong sạch. Lời của chư Phật cũng dạy: hãy tự thắp đuốc mà đi, khi mà đã chọn một con đường đi, thì tinh tấn, sẽ có ngày ra khỏi rừng phiền não luân hồi. Đừng vội nghe đường này, đường kia rồi đi vòng vòng như con kiến bò trên miệng chén thì chừng nào mới ra khỏi rừng. Theo con nghĩ, vị Thầy này nói là không có kinh A Di Đà, không có cõi Cực lạc, như vậy chúng ta không nên làm việc thiện tạo phước để hồi hướng về cõi Tịnh độ; vị Thầy này nói là không có kinh Địa Tạng, như vậy không có địa ngục nên tha hồ làm các điều ác như thế gian không có nhà tù; vị này nói không có thân trung ấm không cúng kiếng gì cả, như vậy chết là hết. Theo con nghĩ là vị Pháp sư này dạy: không làm các việc thiện, tha hồ làm các điều ác, chết là hết, con thấy chủ nghĩa này là chủ nghĩa vô thần không tin nhân quả, giống chủ nghĩa cộng sản quá. Con cũng không biết vị Thầy này tu tới đâu mà dám phỉ báng, chê bai chư Liệt vị Tổ sư Tịnh Độgần đây nhất là Ngài Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, con nghĩ Pháp sư này là cán bộ quá. Vị này nói tới đây thì đại chúng vổ tay đồng hoan hỷ tán thán. Tôi cũng tán thán và nói đại chúng rằng: đạo hữu X đã trả lời rồi, đại chúngđồng ýhoan hỷ không. Lại một tràng pháo tay vang dội tán thán. Xin hết chuyện.

Sau đây là lời tâm huyết của một vị Đại trưởng lão Hòa Thượng vì thương hàng xuất giaân cần dạy:

Đạo Từ của

Đức Pháp Chủ Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ

đọc trong buổi lễ khai mạc khóa bồi dưỡng hoằng Pháp phía Bắc tổ chức tại thành phố Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) ngày  17/12/2010

Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch chư tôn Thiền đức!

Kính thưa Liệt vị cùng toàn thể Tăng Ni, Thiện Tín trong đạo tràng!

Hôm nay chúng tôi rất hân hạnh được tham dự khai giảng khóa bồi dưỡng Hoằng Pháp cho Tăng Ni, Thiện Tín, hoằng pháp viên ở miền Bắc nói chung, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.

Mở đầu, chúng tôi xin thành thực cảm ơn Đạo tràng và Ban tổ chức đã nhiệt tình đón tiếp, cũng xin nguyện cầu Phật, Tổ gia hộ, chứng minh công đức chư vị đã tổ chức Phật sự này.

Đến đây, chúng tôi nhận thấytrách nhiệm phải đóng góp cùng Ban tổ chức hoàn thành tốt chương trình khóa học đã đề ra.

Chúng tôi xin tham gia mấy điểm về việc bồi dưỡng quý vị Tăng Ni nghệ thuật trụ trì và kỹ năng thuyết giảng.

Nói đến trau giồi kỹ năng thuyết giảng là nói đến chuyện phải “học ăn, học nói” như thế nào để người ta nghe được; nói là nói điều gì cho đúng với Phật pháp chứ không phải sa đà vào các chuyện thế tục.

Phật pháp vào đời là để ban vui cứu khổ cho nhân sinh, lấy loài người là đối tượng chủ yếu để giảng dạy.

Đức Phật tuyên thuyết về sự tu hành, nhấn mạnh sa đọa hay tiến hóa cũng ở con người, được quyết định bởi chính mình. Bản thân Đức Phật giáng sinh, tu hành, thành đạo, thuyết pháptịch diệt đều ở cõi người, tuân theo lý vô thường của thế gian.

Đức Phật từ cõi chân tịnhthị hiệnthế gian, cho thấy thế gian này có đủ điều kiện để loài người tu hànhtiến hóa lên như Phật đã làm chứng.

Tăng Ni, ai nấy đều phải tự tín mà xác định mục đích cứu cánh của việc tu hành theo Phật là phấn đấu lên bốn cõi Thánh: Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật, chứ đến cõi Trời tuy sung sướng đầy đủ cũng chỉ thuộc về các cõi phàm, vì ở đó khi hết phúc rồi thì cũng bị sa đọa.

Tăng Ni, chúng ta tu học, tu hành theo Đức bản sư của chúng ta, noi theo tấm gương của Thầy, nương vào Tăng chúng, nỗ lực tự thân tiến hóa, hoàn thiện mình. Trước hết là trau giồi 3 nghiệp thân, khẩu, ý cho chuyên, cho thanh tịnh.

Phương pháp của Đức Phật để lại cho chúng ta rất giản dị, rất rõ ràng, ai cũng có thể làm được. Chỉ có điều chúng ta có làm, làm triệt để hay không mà thôi. Ở miền Bắc, nhất là ở đồng bằng đã có nhiều chùa. Lớn nhỏ, mỗi làng thường có ít nhất một ngọn chùa. Mỗi ngọn thường có 1 vị sư. Nhiều vị có đủ phẩm chất, xứng ở ngôi trụ trì, nhưng cũng còn nhiều vị phải được bồi dưỡng thêm.

Sư là khuôn mẫu, mô phạm của loài người, chí ít là trong một cộng đồng người, nếu khôngđạo hạnh, không có trí tuệ thì lấy gì mà dạy người? Lấy gì làm gương tốt để mọi người noi theo?

Nhà chùa phải phấn đấu theo hướng, không chỉ là nơi thờ Phật, Tổ, sinh hoạt tín ngưỡngcăn bản còn phải là trường học để giáo hóa thập phương đồng bào bỏ ác theo thiện, thấm nhuần giáo lý nhân quả. Từ đó thúc đẩy sự tiến hóa của xã hộinhân sinh. Trụ trì là người trực tiếp, trực diện làm điều đó.

Tăng Ni, vị nào cũng đã từng được biết về ý nghĩa của trụ trì, “trụ Pháp vương gia, trì Như lai tạng” và đều từng biết ý nghĩa của xuất gia “xuất thế tục gia, xuất phiền não gia, xuất tam giới gia”… Nói thì dễ, nhưng để làm, làm đến nơi đến chốn thì không phải là dễ.

Nếu nói rất hay mà không làm, làm ngược lại, làm dở thì vô dụng, không thể giúp đỡ đồng đạo, đồng bào tu họctiến hóa được, đó là nguyên do để  cuộc đời tu hành của chúng ta không hoàn thành trách nhiệm, có tội với Đạo, với Đời.

đệ tử Phật, theo Phật, chúng ta phải học và hành theo Phật, ăn cơm, mặc áo của thập phương thiện tín, chúng ta phải cống hiến trả lại cho đời. Đó là lẽ tự nhiên, là luật nhân quả, chúng ta phải thường tự vấn, tự tỉnh về điều đó.

Trong thực tế, tùy theo mức độ phát nguyện, đệ tử Phật phải giữ gìn, thực hành giới luật: tam quy ngũ giới, bát quan trai, thập thiện, v.v… Lấy những điều đơn giản nhưng rất căn cốt ấy mà nhìn nhận vào 3 nghiệp thân khẩu ý: việc làm, lời nói, ý nghĩ của mỗi người (có sát sinh, có trộm cắp, có tà dâm, có nói dối, có nói thêu dệt, nói đôi đường, nói ác độc, có tham lam, giận dữ, si mê không?) thì thấy  Phật giáo, công việc và trách nhiệm của Tăng Ni, của trụ trì, của Thiện tín đối với bản thân, với đệ tử, với đời sống xã hội là rất nặng nề, song rất có ý nghĩa đối với sự tiến hóa của loài người.

Ngày càng có nhiều điều chân lý, giới cấm của Phật giáo được xã hội, được nhân loại tiếp nhậnthực hành. Đơn cử như việc Liên hiệp quốc ban hành sách đỏ cấm sát hại các loài động vật quý hiếm, bảo tồn môi trường, thực hành giới sát của Đạo Phật vì sự sống có ý nghĩa của nhân sinh.

Căn bản và đầu tiên của nghệ thuật trụ trì là phải gương mẫu. Gương mẫu trong lời nói, việc làm, nhất là việc làm: ban vui cứu khổ, tha thứ, bao dung, chịu thương chịu khó, cần cù, giản dị, tiết kiệm, trường trai giữ giới, thanh tịnh là những điều không bao giờ cũ. Có vậy thì khi mang chân lý nhà Phật ra thuyết giảng người ta mới nghe, mới theo.

Khi thuyết giảng thì nên tùy căn cơ, trình độ của thiện tínphương tiện. Nhà Phật có vô lượng pháp môn đối trị với vô lượng bệnh tật phiền não của chúng sinh. Rốt cuộc lại chỉ còn có hai là Sắc phápTâm pháp. Tới nay, chúng sinh căn bản nghiệp nặng, phúc bạc, muốn theo Phật hòng tiến hóa khỏi sa đọa thì cần tin cho thật sâu, tu hành thiết thực theo pháp môn niệm Phật. Được đâu chắc đó.

Phải luôn tự tỉnh rằng, chân lý mà Phật nói ra cũng chỉ là ảnh tượng, là ngón tay chỉ mặt trăng. Nghe món ăn là ngon thì phải tự được ăn mới biết, còn không thì chỉ là hàm hồ tư biện mà thôi.

Huống hồ thời đại Phật thuyết giáo đã xa xưa, ngôn từ trở ngại, tam sao thất bản, đến nay cái gọi là chân lý đó chỉ còn là cái bã nhả ra của biết bao người, bao thế hệ nhai đi nhai lại. Cho nên, nếu không tu hành tinh tấn, chân thật thì rồi đạo Phật và đội ngũ Tăng Ni chỉ còn là hình thức sa đọa.

Điều cuối cùngchúng tôi  bất đắc dĩ phải nói, cũng chỉ là nhắc lại, với đại chúng và với Ban tổ chức khóa học, Đạo Phậtđạo chân thực, thành thực, lão thực. Hoằng Pháp cũng chỉ là “nguyện giải Như lai chân thực nghĩa” với mọi người, với chúng sinh mà thôi.

Với việc thế gian, sao cho lý với sự, nội dung với hình thức hài hòa. Với việc Đạo cũng vậy, chạy theo sự tướng, hình thức thì khó tránh khỏi sai lạc, đánh mất bản tâm.

Hôm nay, tại hội trường mênh mông này mà thiết lập đạo tràng, âm thanh, ảnh tướng nó cứ oang oang, người tới người lui, phải chăng chỉ là một cuộc phô trương biểu diễn, tâm ý mọi người trong cảnh ấy khó thu, khó nhiếp thì việc hoằng pháp khó hiệu quả được.

Chúng tôi đề nghị, khóa bồi dưỡng, nhất là chuyên cho Tăng Ni, nên chọn một không gian hợp lý, êm ấm, giản dị, tránh tốn kém để lập đạo trànghoằng pháp độ sinh. Đạo tràng Phật sự thiết tưởng nên thanh tịnh, hòa hợp thì mới hợp Pháp, mới đắc Pháp được.

Trước khi dừng lời, chúng tôi xin thành thực chúc chư Tôn đức, chư vị đại biểu khách quý, Tăng Ni, Thiện Tín mạnh khỏe, tinh cần tu học, an lạc, thành tựu. Chúc khóa học thành tựu hiệu quả.

Những lời nói trên đây của tôi có điều gì thiếu xót, thành thực mong quý vị lượng thứ.

Nam mô A Di Đà Phật!”

 

Đây là lời tâm nguyện tha thiết của Đức Pháp Chủ dạy cho hàng hậu học. Ngài tự xưng là Lão nông tăng, năm nay Ngài đã trên 100 tuổi, trên 80 tuổi Hạ. Sau khi tìm hiểu cuộc đời tu hành cũng như những lời dạy của Ngài qua các Đạo từ hàng năm về Phật Đản hay Vu Lan, tôi tự thầm hướng về chốn Tổ Viên Minh, Chùa Ráng Hà Tây, Bắc Việt, nguyện “Y giáo phụng hành”.

Viết xong tại thành phố Seattle lúc 11:00 sáng ngày 22 tháng 12 năm 2016

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1201)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 929)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1250)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 713)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 685)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 759)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 769)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 751)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 747)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 899)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 780)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 939)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 939)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 868)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 874)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 813)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 958)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 891)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 834)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 921)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 843)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 901)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 833)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1092)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 864)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 949)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1095)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1568)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1108)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1179)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1055)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 918)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 864)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 907)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 754)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1434)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1311)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1272)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1214)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1329)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1278)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1416)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1293)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1160)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1205)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1262)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1247)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1361)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant