Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhìn Vu Lan Bằng Đôi Mắt Tình Yêu

17 Tháng Chín 201000:00(Xem: 30432)
Nhìn Vu Lan Bằng Đôi Mắt Tình Yêu


Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh. Rảo bước lang thang trên những con đường heo hút, nhiều lá vàng cũng bắt đầu rụng đầy ngỏ, từng chiếc lá như một âm hưởng triết trời vào mùa thu hiếu hạnh và vầng trăng luôn bừng sáng khắp mọi nơi có mẹ. Vào một đêm, tôi vẫn còn nhớ cái ngày Vu Lan năm Bính Tý, hai người em rủ tôi ra sau nhà hái một vài bông hoa và mấy trái chanh, hương chanh thơm phức, lang tỏa khắp khu vườn. Tôi cố gắng hỏi cho ra lẽ, các em hái mấy này để làm gì, chúng thật bí mật chẳng chịu nói cái điều mà nó sắp thực hiện. Bầu trời đã xuất hiện những ngôi sao lấp lánh như muốn báo hiệu niềm mơ ước gì đó sẽ xảy ra!sân nhà bỗng sập tối, Thế là hai đứa thắp đèn dầu lên,chừ tới đây tôi mới hiểu ra ý của hai đứa muốn gì và Mẹ cũng bất ngờ nghe tiếng gọi mẹ.Từ trong liều bếp mẹ với hơi ra dòn tan là mẹ đang nấu nồi khoai mót cho các con đây! tôi chợt hỏi lại, khoai mót là gì vậy mẹ? mẹ cũng phải nực cười,đáp lại- khoai mẹ đi lượm nhặt lại đó con ơi! chắc có thể là mẹ cũng nghỉ tối nay trăng sáng nên mới luột khoai nóng cho tụi anh em tui, nhưng chúng tôi thì thầm nghĩ đây là phần thưởng mẹ muốn khích lệ trước lúc vào năm học mới. Vừa chia nhau mỗi đứa mỗi phần, sau đó khoai ai nấy bỏ gọn vào túi. Thằng nhỏ cũng biết ý, giã vờ thật thà thương mẹ, nó cũng bày đặt lựa cho Mẹ củ to nhất trong rổ. (Nghĩ cái cảnh khốn khổ, nhà nghèo mà tủi thân buồn bã) sau năm đó Ba tôi đã trở thành người quá khứ. Chỉ còn duy nhất là có Mẹ bên đời với mái nhà tranh xiêu vẹo trong những đêm khuya vắng. Chúng tôi cố cầm lại nước mắt để ngồi xích thật gần Mẹ, nắm lấy bàn tay khô khan thấm mùi sương trời và liếc mắt nhìn nét mặt vất vã đơn độc của mẹ. Một bà Mẹ quê bấy lâu đã mang theo nỗi bôn ba nhọc nhằn khắp chặn đời. Ăn khoai xong, bắt đầu các anh em chúng tôi thay phiên nhau đọc bài thơ của Thầy viết:
“ Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông Chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Như mất cả bầu trời”
Các bạn biết không? Mẹ tôi thì vẫn ngồi lặng lẽ câm nín nhưng từng giọt nước mắt lắng đọng của Mẹ đã tuôn dài xuống đôi gò má gầy yếu. Bởi lẻ chúng tôi đọc những lời lẽ ấy ra đây không chỉ sợ mất thêm một người yêu quí nữa, mà vì quá thương Mẹ của mình quá. Bởi Ba chúng tôi vĩnh biệt ra đi từ lúc tôi lên năm tuổi ( cái hôm ấy bầu trời hiền hòa, đất tự dưng rung chuyển như có tiếng sét đánh vô tri) kể từ đó thân phận trẻ mồ côi đã đỗ ụp xuống trên những búp măn non mới lớn. Sau phút kinh hoàng ấy! Mẹ chỉ biết cặm cụi và có những hôm chúng tôi cứ thức trắng bên mẹ. Hằng ngày bà thường thui thủi một mình gồng gánh mọi việc đồng áng chợ đò, khi tuổi vẫn chưa đủ bốn mươi. Căn nhà mục nát đầy gió và nằm heo hút cuối làng ấy giờ trở nên quạnh quẻ hơn nhiều, chắc thiếu đi bóng dáng của Cha mình. (Những đêm thắp đèn đánh thức con học bài,với những đêm đông Ba luôn cận kề sưởi ấm cho bảy gót chân còn non mềm vào lòng).Tôi biết đó là nỗi niềm bất hạnh lớn đã xảy ra trong đời nhưng cũng đành cam chịu theo dòng thời gian ảo hóađịnh luật vô thường đến rồi đi ‘ vô khứ vô lai’ mà bất kể ai đang sống trên cõi đời dương thế này điều phải chấp nhận sự sống qua vô lượng kiếp phù sinh. Thế là Mẹ tôi vẫn trầm ngâm lắng nghe tiếng đánh vần 'cà lăm' từng con chữ, sau đó mới hết một bài thơ. ‘Thầy’ thì mất mẹ khi tuổi Thầy còn rất trẻ giống y hệt bảy đứa chúng tôi vậy thôi. Có lẽ đọc vần thơ ấy xong, tôi mới thấu hiểu được sự cô đơn của Thầy, lúc Thầy mất mẹ và thầy đã cho tôi cảm nhận được nỗi buồn tri kỷ sinh thành, khi đời mất bớt đi người Cha thân yêu. ( trong màng sương chiều giăng giăng đầy ắp con đường hôm ấy cả nhà phải chạnh lòng ngậm ngùi xót đau). Từ đó Mẹ tôi mang gióng chạy ngược lên non, quay lưng thức khuya dậy sớm, mong sao con mình đủ bữa, có cái chữ đến trường. Bây giờ lớn lên nhớ lại cái ngày tháng rát da của một gia đình miền biển xa xôi, tôi không thể nào quên nỗi hình ảnh Mẹ hiền, một bà Mẹ chân quê ‘buôn chín bán lân’ giã gạo nuôi con từng ngày, không lời than vãng thở dài cũng chưa bao giờ để con mình đói rách phải thiệt thòi thua chúng bạn. Mặc dù đến tận hôm nay các con đã lớn khôn, đang có mặt khắp mọi, nẻo đường mưu sinh chông gai và dần lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc của mọi người, nhưng đôi mắt hiền hậu của Mẹ lúc nào cũng mỏi mòn vì luôn dõi theo hành trang trên bước đường tha phương của mỗi đứa con yêu…có lần Mẹ ngồi im lặng, nghẹn ngào trong giọt nước mắt khô,nhắc thằng ở Cần Thơ, đứa giờ Sài Gòn, tận Mỹ, CaNaDa… còn lại hai thằng có biết chúng chịu sống chung với tui hôm sớm nữa không? (Nói như vậy không phải Mẹ tự hào bầy con của Bà sãi bước đi xa thế đâu)
blank

Ân tình ! Thầy Minh Niệm viết : Trong bản chất của tình thương chân thật phải có chất liệu của sự nâng đỡ, của hy sinh, của hiến tặng. Có lẽ vì thế mà mối liên hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái không bao giờ có thể rứt ra được.
Và có một người kể rằng “…Có hôm, tôi không làm xong bổn phận, đến bữa cơm ông phạt tôi ăn cơm lạt. Nghĩa là chỉ ăn cơm không thôi, không có đồ ăn, và phải quay mặt vào tường bưng tô cơm mà ăn để sám hối về sự lười biếng của mình. Tôi vừa thút thít vừa cố nuốt muỗng cơm đầu tiên nhạt thếch. Đến muỗng thứ hai, thì, ô cái gì thế này? Dưới mặt tô cơm trắng là cả một “kho tàng”. Nào thịt kho, nào tôm rim, nào đậu hũ, được chôn giấu và “ngụy trang” cẩn thận. Tôi ngưng khóc, lấm lét vừa ăn vừa thủ tiêu tang vật. Chắc các bạn biết kẻ nào là thủ phạm của hành vi mờ ám, thông đồng với tội phạm này rồi. Quả là mẹ tôi yêu tôi, một tình mẫu tử mù quáng”.
Nam Đan còn thốt lên: …Giá mà mẹ tôi còn tại thế thì tôi đã có một người sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho cái sự đàng hoàng của tôi, tiếc thay! Nhìn lại đời mình, những khi mà tôi đàng hoàng thì chỉ có mình mẹ tôi chứng kiến mà thôi, nay bà đã qua đời thì lấy ai làm chứng bây giờ?
“Xin có mặt cho người
Bằng tất cả trong tôi
Phút giây này tỉnh thức
Với ân tình chưa vơi”
Như Đức Phật có dạy Có bốn chữ Hiếu trong kinh: tiểu hiếu, đại hiếu, chân hiếu, cận –viễn hiếu. “ Hạnh Hiếu tức Hạnh Phật ” Gốc rễ của cách làm người là ta phải biết bổn phận hiếu thảo với cha mẹ. Bởi vì cha mẹ chính là trời đất, cha mẹSư trưởng, cha mẹ cũng là chư Phật. Nếu như quý vị không có cha mẹ thì quý vị sẽ không có được thân thể này, mà không có thân thể này thì quý vị sẽ không bao giờ thành Phật. Cho nên quý vị muốn thành Phật thì trước tiên phải hiếu thảo với cha mẹ.
"Dù xây chín đợt phù đồ
Không bằng hiếu thuận Mẹ Cha một ngày.”
"Một bên vai cõng Cha, một bên vai cõng Mẹ, như vậy suốt 100 năm, cũng không đủ để đền đáp công ơn sinh thànhdưỡng dục của Mẹ Cha" (Tăng Chi I, 75).
Hoặc "Này các Tỳ kheo, cái này là nhiều hơn, tức là sữa Mẹ các người đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chứ không phải là nước trong bốn biển" (Tương Ưng II, 208).
Hiếu thảo với Cha Mẹcông đức lớn như vậy, lại phù hợp với đạo lý thế gian cũng như với đạo lý nhà Phật. ở đời Chớ đừng:
"Mẹ nuôi con, như Trời như bể,
Con nuôi Mẹ, con kể từng ngày.”
Được lớn lên trong vòng tay ấm áp của Mẹ và Mẹ tôi từng trãi qua cuộc sống không có chỗ dựa. Thế mà Mẹ đã gánh vác che chở cho đàn con nương tựa tới tận bây chừ! Phận làm con khi nghĩ về tình Mẹ thiêng liêng, lấy gì đền trả cho hết công đức sâu nặng như biển rộng rì rào với sóng muôn năm:
"Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời
Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con.”
một lần, tôi nắm tay một người sư em đi thiền hành, dọc theo con suối nhỏ, nước trong veo, hoa rừng ở đây thơm nức nở.Dòng nước cứ muốn lặn lội cuốn mình về đại dương, hai bên lối đi là một màu xanh thăm thẳm của trà non Bảo Lộc. Đôi chân, có lúc dừng lại để tự thưởng thức món quà Mẹ cho. Thật hạnh phúc biết bao, từng bước, như từng nấc thang đi trên cõi đời mênh mông. Sự tạo hóa... mầu nhiệm chỉ có hơi thở chánh niệm mới nhận ra lòng biết ơn vi diệu ấy thôi; huynh đệ chúng tôi khép mắt để cảm nhận nguồn năng lượng thương yêu từ con tim chảy dài xuống gót chân, có lúc Mẹ muốn chúng tôi đứng thật vững chãi, có lúc mẹ dìu bước bên cạnh những khi giông tố khó khăn, nhưng mẹ chỉ muốn đôi chân tự bước vào đời. Tôi hiểu được Mẹ, tôi còn thấy cả khuôn mặt mẹ hiện về thật rõ mỗi lần mẹ nở nụ cười thắm thiết.
Một hôm trên con phố nhỏ, lát đát hàng ngàn cánh hoa phượng vàng, tôi chợt nhận ra rằng mẹ là tình yêu, thứ tình yêu ngọt ngào nhất trong đời , chỉ đến một lần bên ta và lòng mẹ mở ra trước mắt tôi,
Chiều nay tóc mẹ phủ bóng tuyết
Nụ cười mẹ còn trong gương nguyệt
Cánh hoa thuỷ triều dâng đâu đó
Mẹ mãi dòng Hậu Giang trôi êm.
blank

Dường như bức thư tình gửi về cho Mẹ mỗi năm trong mùa báo hiếu vu lan là một lần được minh chứng sự tri ân và sẽ chia vào trái tim biết nói, hai tiếng Mẹ ơi! Một lần nữa, thiết nghĩ có lúc mẹ phải giã từ chia tay em tôi, các anh tôi, chị gái của tôi nên mỗi khi tiếng kinh chiều vang lên là lúc tôi nhận lại tình yêu thương của mẹ biểu hiện như một khung trời hiện hữu “ mẹ vẫn còn đó, nắng chiều như hơi thở”. Lời tỉnh thức gọi tôi về giữa trang kinh niệm Phật chính là thời gian chúng ta trân quí sự có mặt của Mẹ.ý thức nhận ra lẽ thường nhiên của cuộc đờivô thường, sinh diệttiếp nối thì tôi mới hiểu Đức Phật trong lòng tôi. Mỗi ngày giúp tôi tiếp xúc chừng ấy chất liệu thôi là đến một lúc nguồn từ bi sống dậy giữa muôn loài gần gũi bên nhau. Trong phút khoảng lặng buổi sáng, trong lúc ngồi thưởng thức chén trà độc ẩm, múc nước tưới rau, ngắm trăng lên hay bữa cơm chiều dưa muối đạm bạc. Đó là những khi dòng suy thức hiện tại đi ngang qua thì càng Cho ta cảm nhận về chân dung Mẹ, với ý niệm là mình đang có may mắn lớn “Và diễm phúc cho ta hơn thế nữa, Có pháp môn, tăng chúng giữa bụi hồng”
Đã bao kiếp mẹ làm dòng sông lặng
Để chiều về phủ kín ánh tà dương
Từng hạt nắng mẹ chắt chiu gói lại
Để đêm về sưởi ấm mái đầu xanh.
Những ngày Vu Lan sau này, có Thiền sư Tuệ Nguyên dạy về tình yêu khi còn có mẹ trong bài thơ “Tình hoa trắng” lòng tôi càng khắn khít, hiểu hơn về cuộc đời của người mẹ ở cái tuổi thời gian lam lũ, ôm ấp nhiều đắng cay bởi vì con. Qua nhiều cái nhìn, hóa thân của mẹ vào đại dương, trăng ngàn hay một bông hoa ven đồi, giọt sương lam, bờ cát mịn và đôi khi mẹ biếng thành trang kinh giữa nghìn trùng vì sao:
“Áo tôi vàng em cài tình hoa trắng,
Đoá hoa xưa ngày mẹ xới đất trồng.
Giữa những ngày mưa chang và nắng quái,
Giữa biển cồn đời mẹ hóa thành bông”.
Với mẹ, tôi không bao giờ nghi ngờ điều gì cả, dù điều mẹ dạy có khác với lời cô giáo dặn, công thức hóa học để chế tạo ra vũ khí mang đi lấn chiếm đất liền. Bởi vì công thức đó ta sẽ nhanh chóng tìm ra ở mọi cột mốc thời gian nhưng công thức tình thương của mẹ chỉ dành riêng cho ta lúc ta đau ốm, lắng nghe lời vỗ về dạy bảo và tận mắt nhìn mẹ mỉm cười. Đó chính là thứ tài sản quí báu mà bạn không thể nào tìm lại được.
‘ Dù bạn có đội lưng lên non, mang mình xuống biển’ giám chắc rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra dù có phép màu hiện hữu… vô vàn kiếp sau.
… “như cuộc đời - không thể thiếu trong con
Nếu có đi một vòng quả đất tròn
người mong con mỏi mòn
chắc không ai ngoài Mẹ
Cái vòng tay mở ra từ tấm bé
cứ rộng dần theo con trẻ lớn lên”
Thầy còn khuyên chúng ta: “Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờý thức rằng mình có mẹ!"… Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi " làm thế nào " nữa!
Vu lan về cũng là dịp chúng ta biết sử dụng đôi mắt nhìn mẹ thật rõ ràng, một cách cung kính tràng đầy niềm biết ơn sâu sắc, quỳ xuống dưới chân mẹ, để nói lời thỏ thẻ “con cám ơn mẹ” đã sinh ra con và đó là lúc tình yêu đạolên ngôi. Tôi muốn chia sẽ thêm với các bạn rằng, điều đó chính là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa tâm linh cho tình mẹ con luôn gần bên nhau và bạn nên tận hưởng nữa hạnh phúc còn lại giữa cuộc đời càng thêm ý nghĩa. Lấy nguồn cảm hứng, Võ Tá Hân chấp bút mấy dòng thương yêu:
“Mẹ cho ta một tình yêu thương, mẹ cho ta một mùi thanh hương, con tim mẹ truyền đạt tất cả, mẹ dạy rằng yêu thương quê hương.
Tình của mẹ vời vợi trời cao, tâm của mẹ như vầng trăng sao, đôi mắt mẹ mặt trời ánh sáng, bàn tay mẹ cứu vớt thương đau.
Mẹ là Phật đại nguyện hóa thân, mẹ là hoa, hoa đẹp tuyệt trần, mẹ là nước nước nguồn vô tận, cuộc đời mẹ chỉ biết hiến dâng
Con chắp tay chiêm ngưỡng ơn người, con nhiếp tâm khấn chúc vạn lời, mẹ là Phật là Phật hằng hữu, cho cuộc đời con mãi thắm tươi”.
Khúc ca ấy, ngợi ca lòng mẹ, Ông đã mời mẹ lên một tầm nhìn mới trong chiều sâu của đất trời. Đó là Phật hóa thân, là dòng suối mát róc rách tuôn chảy ở mọi ngóc nghách tâm hồn như Mẹ tôi sẽ sống mãi với trái tim thời gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 750)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 742)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1287)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1167)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1134)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1086)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1150)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1031)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1236)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1194)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1155)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant