Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thường Tùy Phật Học

04 Tháng Năm 201707:31(Xem: 9061)
Thường Tùy Phật Học
Thường Tùy Phật Học

Hoằng Nhất Đại Sư
Thích Nguyên Hùng dịch


thuong tuy phat hoc
Quý chú, quý cô xuất gia trẻ thân mến!

Quý vị biết không, trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hạnh Nguyện, có nêu lên 10 đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, mà điều nguyện thứ tám là nguyện “Thường tùy Phật học,” tức là nguyện suốt đời học hỏitu tập theo Phật. Nhưng nếu y theo những điều thần thông diệu dụng ghi chép trong kinh Hoa Nghiêm, thì nhất định hạng phàm phu xuất gia chúng ta không ai có thể học tập theo cho được. Tôi nghĩ, những điều ghi chép trong kinh đó chẳng phải để cho chúng ta học tập theo, hay ít nhất là chẳng phải cho những hạng người như tôi! Tuy nhiên, tôi biết chắc một điều là trong kinh và luật, có ghi lại rất nhiều sự việc mà đức Phật đã làm, và những điều đó đều là mô phạm cho chúng ta noi theo, bất luận là hạng người nào, cũng đều có thể học tập và làm theo được. Hôm nay tôi xin chia sẻ với quý chú quý cô vài điều mà bản thân tôi đã vận dụng được trong cuộc sống tu tập của mình, và tôi nghĩ, quý chú quý cô, cũng có thể “thường tùy Phật học” được.

1. Đức Phật tự tay quét sân. Căn bản thuyết nhất thiết tỳ nại da tạp sự, ghi lại một câu chuyện rằng: Hôm nọ, đức Phật ở tại rừng Thệ đa. Ngài thấy khuôn viên khu rừng không được sạch sẽ, liền tự đi tìm chổi quét dọn. Lúc ấy, các đại đệ tử Thanh văn như Xá lợi phất, Mục kiền liên, Đại ca diếp, A nan v.v… thấy sự việc như vậy liền cùng nhau quét dọn khuôn viên rừng. Quét xong, đức Phật cùng với các đệ tử vào giảng đường, theo thứ lớp ngồi ngay thẳng, đức Phật nói: “Này quý thầy Tỳ kheo! Quý thầy biết không? Quét dọn ngôi già lam có năm thứ công đức rất là thù thắng. Một là tự tâm mình sẽ được thanh tịnh. Hai là khiến cho tâm người khác cũng được thanh tịnh. Ba là chư thiên hoan hỷ. Bốn là tạo được chánh nghiệp. Năm là sau khi mạng chung được sanh lên thiên giới”.

2. Đức Phật cùng với Ngài A nan khiêng đệ tử về và tắm rửa cho vị ấy. Luật Ngũ phần, ghi lại duyên khởi đức Phật chế giới cấm uống rượu, như sau: Tỳ kheo Bà già đà do hàng long mà được rượu, uống say bí tỷ, y bát vất mỗi thứ mỗi đường. Đức PhậtA nan đi ngang qua trông thấy, Ngài liền cùng thầy A nan khiêng Bà già đà đến cái giếng gần đó, rồi tự tay múc nước tắm rửa cho y tỉnh rượu. Nhân đó đức Phật chế giới cấm uống rượu.

3. Đức Phật sửa lại phòng xá. Thập tụng luật, ghi rằng: Đức Phật ở tại nước A la tỳ (Aḷāvī). Một hôm, Ngài thấy cánh cửa chùa bị hư, liền tự tay tháo ra sửa chữa trở lại.

4. Đức Phật chăm sóc bệnh nhân. Luật tứ phần có ghi lại câu chuyện: Có thầy Tỳ kheo bệnh nặng, không thể tự lo vệ sinh cho mình được, đức Thế tôn liền đỡ vị ấy dậy, lấy khăn lau thân thể vốn đã bị dính nhiều đồ bất tịnh cho sạch sẽ. Rồi đức Phật thay y áo bệnh nhân, giặt giũ, quét dọn lại phòng, đem cỏ lót nằm và ngồi thiền hư nát vứt bỏ, thay vào cỏ mới, rải tro lên nền nhà để khử trùng… Xong đâu vào đó, đức Phật đỡ bệnh nhân nằm lại trên giường, lấy y mới đắp lại, rồi ngồi trò chuyện với bệnh nhân cho đến khi các Tỳ kheo khác đi khất thực trở về.

Trong Tây vực ký ghi chép rằng: Phía đông bắc tịnh xá Kỳ hoàn có một ngôi tháp, đó là nơi đức Như lai tắm rửa và chăm sóc cho thầy Tỳ kheo bị bệnh.

Còn nữa, hồi Phật tại thế, có một thầy Tỳ kheo bị bệnh, ôm nỗi khổ đau, thui thủi một mình. Đức Phật hỏi: “Tại sao thầy kêu khổ? Tại sao thầy ở một mình?” Vị ấy đáp: “Bạch đức Thế Tôn, tính tình con thường hay làm biếng, lại chẳng khi nào giúp đỡ và chăm sóc người bệnh nào, cho nên khi con bệnh chẳng ai chăm nom.” Đức Phật ân cần nói với vị ấy: “Thiện nam tử, để Như lai chăm sóc cho thầy!”

5. Đức Phật may y cho đệ tử. Kinh trung a hàm ghi rằng: Đức Phật may cho ngài A na luật ba chiếc y. Các thầy tỳ kheo thấy vậy liền cùng nhau người cắt, người may, trong chốc lát thành y.

6. Đức Phật xâu kim cho thầy tỳ kheo lớn tuổi. Việc này có rất nhiều người biết. Nhưng tôi thì quên mất không nhớ nó nằm trong kinh luật nào, nên nay không thể kể nguyên văn câu chuyện, mà chỉ kể đại khái như vầy: Hồi Phật còn tại thế, có một tỳ kheo lớn tuổi vá y, nhưng vì mắt thầy đã nhoà, nên xâu mãi mà không thể nào đưa chỉ vào lỗ kim được, liền buột miệng thở dài: “Có ai giúp tôi xâu kim với!” Đức Phật nghe thấy, liền đứng dậy nói: “Để tôi giúp cho thầy!”

7. Đức Phật xin chúng tăng cử tội. Đó là sự việc diễn ra sau khi đức Phật cùng với các đệ tử an cư kiết hạ xong, tiến hành lễ tự tứ. Kinh tăng nhất a hàm, ghi: Đức Phật ngồi trên toà cỏ (tức là ngồi dưới đất, thay vì bình thường đức Phật ngồi trên toà đã soạn sẵn cao hơn chỗ ngồi của đại chúng để thuyết pháp), và thưa với đại chúng rằng: “Kính bạch đại chúng! Không biết tôi có gây lỗi lầm với người nào không? Thân, khẩu, ý của tôi có phạm không? Xin đại chúng chỉ cho!” Đức Phật nói như vậy ba lần.

Linh Chi luật sư nói rằng: Như Lai cũng tự tứ, là để thể hiện pháp bình đẳng, làm mô phạm cho đời sau, khiến cho đại chúng tỉnh ngộ, diệt trừ tâm ngã mạn.

Quý Tăng Ni sinh thân mến! Trên đây là bảy việc mà đức Phật đã từng làm, và tất cả chúng ta đều có thể noi theo, mà theo tôi nghĩ, đó là ý nghĩa của “thường tùy Phật học.” Dĩ nhiên, ý nghĩa vi diệu của câu kinh vốn là đại nguyện của đức Bồ tát Phổ Hiền, thì đâu phải chỉ thô thiển như thế! Nhưng nếu những việc thường tình như vậy mà đức Thế Tôn không làm, thì Ngài sao có thể thành Phật được? Vì vậy tôi mong mỏi quý vị Tăng Ni sinh hãy nỗ lực mà học theo để nhổ tận gốc ỷ lại, vốn là căn bệnh thời đại của người xuất gia trẻ, diệt trừ tâm kiêu mạn, tăng trưởng tâm từ bi, vun bồi phước nghiệp, mau chứng quả bồ đề. Đó là tâm nguyện mà tôi hy vọng quý chú quý cô cố gắng thực hành. Mong thay!


Hoằng Nhất Đại SưThích Nguyên Hùng dịch

Theo TTM

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 786)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 705)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 797)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 939)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 999)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 751)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1143)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1159)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1035)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1156)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1244)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1196)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1751)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1148)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1178)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1289)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant