Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảy Đóa Sen Vàng Nâng Gót Ngọc

17 Tháng Năm 201707:06(Xem: 8461)
Bảy Đóa Sen Vàng Nâng Gót Ngọc
BẢY ĐÓA SEN VÀNG NÂNG GÓT NGỌC

Quảng Tánh

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN


Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc là một thông điệp vĩ đại về tiến trình thành tựu Vô thượng giác của chính Thế Tôn và tất cả chúng ta, những người con Phật.

Ngài ra đời, bước đi trên bảy đóa sen, ngước nhìn sáu phương, buớc cuối cùng dừng lại tuyên bố, xác quyết sự thành tựu Vô thượng giác. Vào đời với bảy bước chân trí tuệ, từ bi, an lạc, vô nhiễm, chẳng dính chút bụi trần là một định pháp mà ba đời mười phương chư Phật đã đi qua, Đức Thế Tôn cũng đã đi qua và những người con Phật sẽ phải đi qua để đạt đến Giác ngộ.

Theo kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh-phẩm Thụy Ứng, Bồ Tát đản sanh, bước thứ nhất nhìn về phương Đông, vì chúng sanh mà làm Bậc dẫn đường tối thượng. Phương Đông, nơi phát xuất bình minh tuệ giác. Chúng sanh từ nơi tăm tối của dục vọng, vô minh muốn cất bước chân đầu tiên vào đạo lộ giải thoát phải nương theo tuệ giác, tiếp nhận ánh sáng Tam bảo để hoàn thiện nhân cách. Muốn vậy, phải kiện toàn đạo đức, tri thức thông qua học hỏi, suy nghiệm và thực hành Chánh pháp. Trước khi trở thành thánh nhân, phải nỗ lực để sống xứng đáng là một con người. Do vậy, tu tập Nhân thừa chính là bước chân đầu tiên. Bước chân nầy phải đặt trên hoa sen mới đúng nghĩa và trọn vẹn.

Cất bước thứ hai, Ngài nhìn về phương Nam thanh lương, vì chúng sanh làm ruộng phước mát mẻ. Thế Tôn đã vì chúng sanh nguyện làm ruộng phước màu mỡ để cho mọi người gieo trồng phước đức. Trong các ruộng phước thì Tam bảoruộng phước tốt nhất cho hạt giống trí tuệ, từ bigiải thoát đâm chồi nẩy lộc. Vì thế, khi đã vững trong địa vị Nhân thừa, người con Phật tiếp tục nương tựa Tam bảo để chuyển hóa nghiệp lực, tu tạo phước điền, trang nghiêm phước báo cho tự thân. Phật là Đấng Phước Trí nhị nghiêm, học theo Phật thì việc thực hành chuyển hóa nghiệp ác của thân, miệng, ý thành nghiệp thiện nhằm vun bồi công đức là điều tối cần. Đây chính là giai đoạn tu tập của hàng Thiên thừa, dứt ác hành thiện, chuyển hóa mười nghiệp ác thành mười nghiệp lành. Bước chân thứ hai này là sự kế tục của bước chân thứ nhất, từ nền tảng quy y Tam bảo, thọ trì năm giới tiến lên tu mười nghiệp thiện. Đến đây, người con Phật đã đi được chặng đường ’không làm các điều ác, chỉ làm các việc lành’. Dù đã chuyển hóa nghiệp ác nhưng muốn đoạn trừ hoàn toàn cội rễ phiền não, vô minh thì người con Phật cần phải nỗ lực mạnh mẽ hơn. Vì thế, Ngài cất bước thứ ba, nhìn về hướng Tây chỉ cho chúng sanh thấy rằng đây là thân cuối cùng, chấm dứt sự sanh tử. Từ chuyển hóa nghiệp hướng đến chấm dứt nghiệp, thoát ly sanh tử là nội dung tu tập của bước chân thứ ba. Phương Tây là phương mặt trời lặn, hướng về sự vắng lặng, thanh tịnh, tịch diệt. Tâm phải nương vào thiền đînh, tập trung về một mối, định tĩnh, tịch tịnh hoàn toàn. Đầy là bước chân của hàng Thanh văn thừa, những bậc Thánh hướng đến thoát ly sanh tử. Nỗ lực thiền định, phối hợp nhịp nhàng giữa chỉ và quán, hướng tâm đến bất động, phát huy thiền quán duyên sinh để thân chứng vô ngã tính của thân tâmvạn pháp, thành tựu Tam vô lậu học, phá tan vô minh, chứng đắc A la hán.

Bước chân thứ tư là mở đầu cho hạnh nguyện độ tha, Ngài nhìn về phương Bắc lạnh lẽo, tối tăm, vì chúng sanh mà khai mở tuệ giác tối thượng. Khi đã giải thoát sanh tử, vì chúng sanh khổ đau nên Bồ-tát không an trú Niết-bàn mà phát khởi bi nguyện nhập thế. Bồ tát đi vào cuộc đời tăm tối vô minh, mịt mờ tham ái nhưng chẳng dính chút bụi trần, vững bước thong dong trên hoa sen bất nhiễm. Vận dụng vô lượng phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sanh, trong đó quan trọng nhất là chỉ rõ rằng, con người có khả năng giác ngộ ngay trong cuộc đời này. Mỗi chúng ta ai cũng có Phật tánh và đầy đủ khả năng thành Phật. Chúng sanhvô minh sâu dày nên không đủ căn lành tin vào tâm giác ngộ vốn sẵn có nơi mình. Vì thế, thị hiện sự chứng đắc tuệ giác vô thượng trong đời sống ô trược là một minh chứng hùng hồn nhất cho khả tính giác ngộ. Dẫu rằng đạt đến giác ngộ không phải là điều có thể thành tựu trong một sớm một chiều mà có thể trải qua ba a tăng kỳ kiếp mới đến ngày công viên quả mãn. Song việc đánh thức niềm tự tín giải thoát để chúng sanh tự mình thắp đuốc lên mà đi, để thấy rằng Như Lai là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành là bi nguyện vĩ đại của Bậc Giác ngộ.

Tiếp tục dấn thân làm lợi ích cho hữu tình, cất bước chân thứ năm-bước chân hoa sen trong bin lửa, nhìn xuống phương dưới vì chúng sanh hàng phục chướng ma. Phương dưới vốn thấp kém, quả báo của những chúng sanh ấy chịu nhiều đau khổ, nên cang cường, hung dữ, ác độc cố chấp, ti tiện, hẹp hòi... Vì thế, ma chướng rất cần được soi sángthương yêu, tưới tẩm cam lộ. Nguyện hàng phục chúng ma nhưng thực ra chỉ cần đem trí tuệtình thương đến cho họ mà thôi. Sự khổ đau rất đa dạng, trùng điệp. Khổ đau làm cho tâm hồn tăm tối và thân phận càng bi đát hơn. Vì thế, càng đau khổ đến tột cùng thì oán thù càng chồng chất và sự đày đọa thêm chập chùng, vô tận. Muốn hàng ma phải đi vào những nơi đau khổ, tối tăm, đầy hiểm nạn và nhờ đó tuệ giác, bản lĩnh, công hạnh của Bồ tát mới thậm thâm. Bồ tát Quán Âm tầm thanh cứu khổ, nơi nào có tiếng kêu than bất hạnh thì Ngài tìm đến. Bồ tát Địa Tạng nguyện khi nào chúng sanh không còn bị đày đọa trong địa ngục thì Ngài mới an trú Niết bàn.

Bước chân thứ sáu, nhìn lên phương trên vì chúng sanh làm chỗ nương tựa cho trời người. Khi đã dẹp yên ma oán, độ được những thành phần thấp kém khó độ thì hướng về những đối tượng cao hơn, có trí thức, hiểu biết và nhiều phước báo. Trời người là những chúng sanh có phước, ít đau khổ hơn so với tam đồ, ác đạo. Song, nếu không tích lũy và phát triển phước báo của mình bằng tu tập theo chánh pháp thì phước đức sẽ hết và sẽ bị đọa lạc như thường. Mặt khác, dẫu có phước báo nhưng vẫn bị vô minh chi phối, tham ái ràng buộc, phiền não hoành hành. Vì thế, trời người cấn nương tựa Tam bảo, tiếp nhận ánh sáng giác ngộ, phát huy tuệ giác vô ngã để ’an trú tâm và hàng phục tâm’, hướng vế giải thoát tối hậu. Trong sáu cõi thì trời người có nhiếu cơ hội thực hành Chánh pháp và thăng hoa tâm linh hơn các loài khác. Nương tựa Tam bảo, trời người tìm ra con đường nương tựa chính mình để tư mình thấp đuốc lên mà đi.

Khi đã tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì đó là thời điểm công viên quả mãn, thành Phật. Vì thế, bước chân thứ bảy là bước chân cuối cùng, công hạnh tự lợilợi tha đã tròn đầy, Ngài tuyên bố : Ta là bậc đã tôn quý và tối thắng trong thế gian. Đối với chúng sanh trong ba cõi, bất kỳ ai tu tập đạt đến viên mãn tự lợilợi tha là Bậc tôn quý nhất, thù thắng nhất. ’Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có đặt ngang bằng, Bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A la hán, Chánh đẳng giác’ (Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm Một người).

Thế Tôn đã đi qua bảy bước sen để thành Phật. Chúng ta, những người con Phật hiện đang đi và sẽ đi theo bảy bước chân ấy. Nguyện theo dấu chân xưa, thực hành tự độ và độ tha cho đến ngày công viên quả mãn, Mùa Phật đản về, hình ảnh Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc có mặt khắp nơi, gợi lên cho mỗi người con Phật niềm tự tín giác ngộ của tự thân. Chúng ta cũng đang bước chân trên hoa sen bằng sự nỗ lực tu tập, ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày để từng bước thành tựu giải thoát, an vui cho chính mình và mọi người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 767)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 993)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 749)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 759)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1289)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1169)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1152)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1125)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1238)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1173)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1156)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1145)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1172)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant