Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Bài Học Từ Cuộc Đời Đức Phật

26 Tháng Năm 201710:01(Xem: 7905)
Những Bài Học Từ Cuộc Đời Đức Phật

NHỮNG BÀI HỌC TỪ CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT

PhatDan__10_Mùa tháng Tư âm lịch là cao điểm tưng bừng Lễ Hội Vesak và Phật Giáo kỷ niệm Đức Phật đản sanh lần thứ 2641. Những đêm hội diễn văn nghệ, những ngày diễu hành xe hoa, rước xá lợi Phật, những lúc phát quà từ thiện,những bài diễn văn hội thảo ý tứ thâm sâu, lời kinh kệ ngân vang nơi các đàn tràng quần chúng,…tất cả đều trôi qua dần khi tháng Tư khép lại. Thế nhưng, dư âm mùa Phật Đản vẫn mãi còn đó. Những bài học từ cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn in sâu trong chúng ta trong hành trình theo dấu Như Lai, đường xưa mây trắng, trở về bảo sở.
Ngài vốn là Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất, đến với cuộc đời này bằng nguyện lực chớ không phải do nghiệp lực. Ngài quán sát thấy Vua Tịnh Phạn Vương và Hoàng Hậu Ma Gia đức hạnh cao vời, đang cầu con trai nên chọn 2 vị này làm Song ThânCa Tỳ La Vệ làm quê quán đản sanh.. Ngài vào đời với Lục Độ Ba La Mật như báo hiệu với voi trắng sáu ngà thuần khiết, vững vàng vào trong lòng Mẹ. Vậy nếu Phật tử muốn về Tây Phương Cực Lạc để thoát ra ngoài vòng sanh tử - đó cũng là điều tốt – nhưng ở nơi Cực Lạc chỉ là luyện công, tạm thời, quan trọng là khi đã vững vàng rồi thì tiếp tục dấn thân hội nhập vào cuộc đời. Nơi nào có bùn nhơ ô trược thì nơi đó có hoa sen thanh khiết. Nơi nào có chúng sanh khổ đau thì nơi đó có Bồ Tát ứng hiện hóa độ.

Ngài đản sanh gắn liền với những sự kiện hy hữu vi diệu : sanh từ hông bên phải, dưới cây hoa Vô Ưu, chín rồng phun nước, bảy bước trên hoa sen với câu tuyên ngôn nổi tiếng : “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Trên trời dưới đất, Ta là hơn hết, sanh tử vô lượng đến nay chấm dứt),(có rất nhiều cách ghi chép khác nhau về câu tuyên ngôn này). Đã có rất nhiều sự thảo luận liên quan đến những sự kiện này, tựu trung Ngài bao hàm cả hai phương diện : Đức Phật Tôn Giáo (có những yếu tố mang tính cao siêu huyền diệu, khác thường) và Đức Phật Lịch Sử ( những chi tiết rất thật gắn liền với lịch sử, với cuộc sống con ngườixã hội thời đó). Những sự kiện thiêng liêng đó hiện diện một phần là vì lối văn chương mô tả hình tượng hóa sống độngthể hiện sự tôn kính với các bậc siêu nhân, vốn đã có từ thời Áo Nghĩa Thư, Vệ Đà,…Dù gì đi nữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là một nhân vật lịch sử, có thật, sinh vào khoảng năm 544 Trước Công Nguyên (TCN), đặc biệt được xác chứng bởi trụ đá vua A Dục (Asoka) của Ấn Độ vào khoảng 2 thế kỷ sau thời Đức Phật. Năm 249 TCN, khi vua A-Dục (Asoka) đến thăm Lâm Tỳ Ni, nó còn là một ngôi làng phồn thịnh, Ông đã cho xây dựng bốn ngôi tháp và một cột trụ bằng đá được khắc chữ và dịch ra như sau: "Ta là vua A Dục, là niềm tin tưởng của chư thiên, trong 20 năm trị vì này, ta đã thực hiện một chuyến thăm của hoàng gia đến nơi đức Phật được sinh ra tại đây…Lâm Tỳ Ni được giảm một phần tám thuế "

 

Thái Tử Tất Đạt Đa có một nền tảng giáo dục vững chắc, toàn diện, bao gồm nhiều phương diện : văn chương, triết học, tôn giáo, võ thuật, trị nước, kinh tế, chính trị, quân sự,…Một người thường như chúng ta thật khó mà giỏi nhiều phương diện như Thái Tử Tất Đạt Đa. Tuy nhiên, nếu được như vậy thì hành giả có một nền tảng vững chắc để học, hiểu Đạo, hành Đạo và hoằng truyền Giáo Pháp. Chúng ta thấy, trên bước đường Hoằng Pháp sau này của Đức Phật, Ngài dễ dàng chinh phục cảm hóa được ngoại đạo, vua quan, các hạng người khác nhau trong xã hội vì Ngài vốn có kiến thứckinh nghiệm về cuộc sống và sinh hoạt với họ kể từ khi Ngài còn là Thái Tử. Cho nên thời này, tùy theo khả năng và sở trường của mỗi người khác nhau, người tu sỹ nếu được huấn luyện và giỏi các ngành xã hội như : giáo dục, tâm lý, hành chánh, tôn giáo học, chính trị,… vẫn tốt và hoằng Pháp thích hợp hơn, có nền tảng vững chắc, đối chiếu liên hệ cuộc sống xung quanh song song với việc trau giồi nội điển Phật Pháp thâm hậu. Như thế hành giả vừa có thể làm ịch lợi cho xã hội thông qua các chuyên môn của mình, vừa gần gũi tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hộicảm hóa họ với Chánh Pháp, xứng đáng với Phật Giáo trong thời hiện đại, Phật Giáo với khoa học, Phật GiáoTôn Giáo tương lai toàn cầu theo như dự liệu của nhà bác học nổi tiếng Albert Einstein.

Sống trong cung vàng điện ngọc được bao bọc bởi bao nhiêu cảnh đẹp, tốt tươi, hưởng thụ và hạnh phúc nhưng Thái Tử vẫn luôn khắc khoải muốn tìm hiểu cuộc sống của dân chúng ngoài bốn cửa thành. Ngài bao nhiêu lần xin phép vua cha cho dạo ra ngoài thành để tiếp xúc với dân chúng và tìm hiểu đời sống người dân. Cuối cùng vua cha cho phép dạo bốn cửa thành và Ngài liền nhận ra nỗi khổ và thực tế cuộc đời. Đây là bài học sống động cho những ai bon chen, tranh danh đoạt lợi với nhiều thủ đoạn, “tính sao có lợi thì làm và sống chết mặc bay”. Dù có phước sẵn nhưng không mải mê thâu tóm, hưởng thụ cho phần mình mà quan tâm và chia sẻ chung với cuộc sống của mọi người, đó là đặc điểm của các bậc vĩ nhân. Vậy chúng ta càng tiếp xúc, trải nghiệm hiểu thực tế cuộc đời bao nhiêu, càng bớt đắm say với thế gian bấy nhiêu và do đó sẽ dễ tu hơn. Nếu những ai không ngộ ra các bản chất cuộc sống và các pháp hữu vi vốn : “Khổ, Vô Thường, Vô Ngã” rồi ngày mai ta trở về cát bụi thì dễ dính chấp và khó tu. Đó cũng một phần giải thích lý do tại sao người tuổi già đi chùa nhiều hơn tuổi trẻ, bởi vì người lớn tuổi đã từng trải cuộc đời không còn quá khao khát đam mê tìm kiếm nữa và họ không còn háo hức, đắc thắng nữa mà đối diện với tuổi già, sức yếu, những giới hạn của đời người, những khổ đau phũ phàng và một chuyến ra đi bất định…Mục kích cảnh : Già, Bệnh, Chết, Tu Sỹ ( chắc là tu sỹ của Bà La Môn), khiến Thái Tử Tất Đạt Đa trầm tư về kiếp người, về những câu hỏi rất ư là triết học : con người từ đâu đến, sống ở đây để làm gì, rồi chết đi về đâu? Tại sao ai cũng chịu cái quy luật vô thường và tàn phai như thế, có cách gì thoát ra được cái vòng luẩn quẩn sanh già bệnh chết đó không? Những suy tư này có vai trò rất lớn, làm động lực cho Thái Tử xuất gia, đi tìm và ngộ được chân lý sau này.

Sự xuất gia của Ngài là một cuộc thoát ly vĩ đại, xa cha già, mẹ yếu, vợ đẹp, con thơ, ngai vàng, sơn hà, xã tắc, từ người tột đỉnh cao sang, có tất cả để trở thànhhành khất lang thang, không có gì hết ngoài y rách và cái bát khất thực nuôi mạng sống qua ngày. Nếu như chúng ta ở vào vị trí của Ngài, thật khó để chúng ta có thể xuất gia được như Ngài. Đó là hình ảnh một người thiết tha tầm cầu chân lý và không màng gì nữa nơi thế gian này. Xuất gia trong tư thế: có tất cả mà buông bỏ tất cả, hy sinh tất cả những đặc quyền đặc lợi của mình, cắt đứt tất cả mọi ràng buộc thế giantâm nguyện cao cả tìm ra ánh sáng, mang hạnh phúc chân thật đến mọi người. Có nhiều phật tử, khi lo trả nợ tương đối xong thế gian rồi, nhưng có dám buông bỏ tất cả để đi xuất gia không hay là tự tạo và ôm thêm những món nợ mới không đáng có? Ngay cả việc đi xuất gia gieo duyên vài ngày mà họ cũng lo, cũng tính, cũng phân vân đủ thứ. Còn tiếc, còn ham, còn chấp, còn giữ, khó buông vậy thì làm sao mà gần với Đạo? Hạnh phúc là xả ly thanh thản,ban cho chứ không phải hạnh phúc là thâu tóm, hoặc bo bo ôm đồm nắm giữ cho riêng mình.

Khi xuất gia, Ngài đã “xả phú cầu bần”, thân  vàng vóc ngọc của Ngài lại chu du khắp nơi tầm sư học đạo, thiên lý tầm sư từ Lâm Tỳ Ni cho đến núi Tuyết Sơn, Ni Liên Thuyền, Bồ Đề Đạo Tràng,…Ngài đi bộ, gai cào xước hết chân, chảy máu, còn ngày nay chúng ta thì sao? Đúng là : Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (chí sỹ Nguyễn Bá Học). Chúng ta có nhiều phương tiện giao thông thuận tiện nhưng có tận dụng mọi cơ hội để tham vấn học Đạo với các bậc cao nhân, chân nhân, cao Tăng thạc Đức không? Phương tiện internet, DVDs, youtube, facebook,… sẵn có nhiều đó mà mỗi ngày chúng ta học được bao nhiêu bài Kinh? Phương tiện đã có sẵn mà không lo học Đạothực hành, phan duyên trần cảnh, chơi nhiều hơn học, tò mò khám phá thế gian thay vì chân lý giải thoát, đó là phóng dật, dễ duôi, phung phí cơ hội. Chỉ có Trí Tuệ mới là sự nghiệp, mỗi người phải nghe, đọc nhiều, suy tư, thảo luậnthực hành thì mới phát sanh Trí Tuệ. Không ai ban cho Trí Tuệ được, không có Trí Tuệ thì giác ngộ, giải thoát mãi mãi xa vời.

Ngài không thỏa mãn và dừng lại giững chừng khi chưa đạt được mục tiêu đặt ra từ ban đầu. Tâm lý này chúng ta dễ có, sau một thời gian phấn đấu, chúng ta có một số kết quả khả quan nào đó, ví dụ hiểu biết được một số kinh sách, có chùa to, Phật lớn, đệ tử đông, chức vụ lớn,…liền tự cho phép mình “nghỉ giải lao” và hưởng lai rai với lời tự an ủi : dù gì thì mình cũng có cống hiến cho Phật Giáo xưa nay và còn đang tiếp tục giúp cho người khác tu học, dù mình có hưởng thụ lai rai để ổn định, an vui và cống hiến âu đó cũng là điều tự nhiên của một cơ thể sinh vật lý, mình đâu phải là một cái máy, sắt thép vô cảm, chắc cũng không sao. Phiền não tham, sân, si luôn ngủ ngầm, tiềm ẩn và chờ cơ hội thì bùng dậy, trùm phủ lên và phá hủy tất cả.  Trường hợp Bồ Tát Tất Đạt Đa được 2 vị Thầy Alara Kalama và Uddaka Ramaputta đạt chỗ cao nhất về cảnh giới Vô Sở Hữu XứPhi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiền xác chứng :

“Này đạo hữu Gotama, tôi vô cùng hoan hỉ được có một người bạn đồng tu tài đức đáng tôn kính như đạo hữu. Những gì tôi đã hiểu biếtchứng ngộ thì nay đạo hữu cũng đã hiểu biếtchứng ngộ như tôi. Vậy thì đạo hữu hãy ở lại đây cùng tôi dẫn dắt nhóm đạo sĩ này”.

Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục từ giã ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của chân lý cứu khổ độ sanh. Trên đường tu tập, chúng ta hãy cẩn thận xem có thể vướng vào bẫy : Danh – Lợi – Tình bất cứ lúc nào khi chúng ta có được một số phước và sự tôn kính nhất định nào đó. Ngài đã vượt thoát ra tất cả mọi cám dỗ vi tế và “không ngủ quên trên chiến thắng”. Nói theo cách của Ông Steve Jobs, “hãy cứ khát khao và hãy cứ dại khờ”, vẫn mãi khát khao đi tìm chân lý tối hậu và vẫn mãi “dại khờ” vì làm kẻ cô thân chích ảnh, an bần thủ đạo, không hưởng các phước hữu lậu khi đang ở tư thế để hưởng thụ dục lạc sẵn dành xung quanh.

 

Ngài đã trải qua 6 năm tu học miên mật và 49 ngày đêm thiền tọa bất động dưới cội Bồ Đề. Quả thật đúng với câu nói : Đường đi đến thành công không dành cho những người lười biếng và cũng không lót đầy những đóa hoa hồng, hoặc như Tổ Sư Hoàng Bá nói : nếu chẳng bao phen sương buốt lạnh – Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương. Hành giả phải từng giờ từng phút thực hành tu tập, kiên định trên con đường đi, tập khí sanh từ phiền não từ vô thủy đến nay dày bao nhiêu lớp lớp, thì lực phá vỡ nó cũng đòi hỏi phải công phu dày dạn đủ lớn mạnh để làm phản lực xứng tầm. Công việc chính của người tu là tự soi xét lại mình, chuyển hóa thân tâm hướng thiện, hướng thiện, trau dồi Giới Định Tuệ đến ngày công viên quả mãn thì tâm thức sẽ được bừng vỡ khai ngộ với chân lý. Thế giới hiện nay, pháp môn nhiều, hứa hẹn nhiều, phỉnh dụ nhiều nhưng chúng ta hãy đối chiếu lời dạy và pháp môn của họ có giống với những gì mà Đức Phật Thích Ca đã trải qua trên đường tu tập hay không? Nghe thì nghe nhưng chúng ta phải tham khảo đổi chiếu rồi tự mình rút ra kết luận. Nếu pháp môn nào mà không bao hàm Giới Định Tuệ và chuyển hóa thân tâm, trừ phiền não Tham Sân Si thêm Từ Bi Hỷ Xả thì coi chừng pháp môn ấy lệch lạc và mị dân. Tấm gương Ngài đã vượt qua mọi loại ma chướng là lời cảnh tỉnhđộng lực cho chúng ta mỗi khi gặp nghịch duyên, trở ngại và chấp nhận chúng là những điều tất yếu phải đối diệnvượt qua. Những thử thách đó chúng ta sẽ gặp thôi, sớm hoặc muộn, đúng ra chúng ta phải cảm ơn nghịch cảnhma chướng giúp chúng ta có cơ hội bồi dưỡng công lực, tôi luyện và trưởng thành. Khi hành giả trước sau son sắt : “ Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, “thắng một vạn quân địch không bằng tự thắng được lòng mình”, nếu không có nội ma, tâm ma mở đường dẫn lối thì thế lực ma quân nào có thể làm lung lay hay quật ngã được ta?

Khi Sao Mai vừa mọc, canh ba, đêm thứ 49 dưới cội Bồ Đề Ngài chứng tam minh lục thông, ngộ đạt chân lý tột cùng và lên ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác, Phật – Thế Tôn. Khi chúng ta chưa có gì liên quan đến Tam MinhLục Thông, còn “phàm phu chay” thì có gì tự cao tự đắc? Hãy đề phòng tính tự mãn trong việc tích lũy những lời dạy của Như Lai rồi pha trộn hỗn tạp rao bán tô bồi cho bản ngã và vì mục tiêu lợi dưỡng. Khi hành giả chứng ngộ thì thông tỏ vạn phápchân lý lưu xuất từ nội tâm tịch tịnh thấu đạt một cách tự nhiên, còn những uy nghi đạo mạo cố chứng tỏ ta là người thông thái, hơn người, ta là thánh nhân, siêu nhân, “ngồi riêng một chiếu” trong khi phiền não đầy người, rối rắm ngổn ngang – đó chỉ là màn diễn rẻ tiền ảo tưởng lừa mình, lừa người. Bệnh ảo tưởng và hoang tưởng lâu ngày tưởng là thật đến nỗi chính họ cũng tin họ có năng lực siêu tuyệt, độc nhất. Thuyết giảng nhiều, nhưng nếu không thông, chính mình trước sau mâu thuẫn thì làm sao người nghe được sáng tỏan tâm tu tập? Hội Đồng Điều Hành và Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo các quốc gia cần phải có Ban Chuyên Môn nghiên cứu kỹ lưỡng và thẩm định giá trị chân lý trong bài “Pháp Thoại” của nhiều vị “giảng sư” để tránh tình trạng ảo tưởng chứng đắc, siêu tuyệt độc nhất với những lời sấm phán với tâm thức đảo lộn gây hoang mang bao nhiêu người Phật tử - nhất là ở thời công nghệ thông tin, tốc độ lây lan quá nhanh, khó lòng kiềm chế. Do đó, các vị giảng sư ( trong đó có tôi) cần phải nên không ngừng thực tập, có chiều sâu nội điểnthực chứng chứ không đơn thuần cậy vào tài xảo ngôn, thông minh, duy lý của mình, có sự khác biệt giữa ngộ nhập chân lý và đoán mò tán diễn chủ quan.

Sau khi chứng ngộ dưới cội Bồ Đề, bước đường vân du giáo hóa hơn 45 năm của Ngài để lại cho chúng ta rất nhiều bài học. Trước hết đó là “nhạo thuyết” (ưa thích nói Pháp). Chúng ta học hỏi tinh thần này không phải đợi lên bàn giảng sư với chuông trống bát nhã, hai hàng cung nghinh, khay lễ đưa đón mới là “Pháp Thoại” mà trong cuộc sống một ánh mắt, một nụ cười, một lời khuyến khích sẵn sàng gieo duyên đến với mọi người, mọi nơi một cách bình đẳng, tự nhiên không tính toán. Những câu nói nghe có vẻ “rất thường tình” nhưng hàm chứa chất liệu giáo Pháp và đưa ra đúng nơi, đúng chỗ, có tác dụng trị liệu chuyển hóa thân tâm người nghe theo chiều hướng tốt đẹp, đó là hoằng Pháp. Bây giờ các giảng sư “nổi tiếng” quen diễn ở “xô lớn” (show lớn) không chấp nhận diễn ở những “xô nhỏ” ít người nghe, hoặc thờ ơ, vô cảm, làm biếng nói với từng người “thường dân” đơn lẻ và thậm chí cái bệnh ngôi sao nổi lên, người ấy cố tình tạo cảm giác “khó gặp”, có vậy mới hiếm và quý. Ngày xưa đức Phật ngồi thiền quán sát cơ duyên từng chúng sanh để chủ động đến tiếp cận họ và hóa độ chứ có đâu mà mọi người chầu chực chờ gặp Pháp sư như chầu cửa quan? Tất nhiên tôi hiểu, những vị đó tự ngụy biện hoặc an ủi mình là : thời giansức lực có hạn, không thể “xài phung phí vô tư” mà để dành “làm việc lớn”, lợi ích cho nhiều người và lâu dài. Thế nhưng, tính toán quá lại nảy sinh những tác dụng phụ mang tính cách phân biệt đối xử, mất đi tính Từ Bi Hỷ Xả hòa ái, gần gũi của tu sỹ, vốn là hành giả hành khất lang thang, tùy duyên hóa độ vô cầu. Ngược lại, cũng không nên mang cái bệnh “giảng sư”, ở chỗ nào mình cũng làm “Thầy” chỉ đạo, giảng giải quá nhiều, không hợp với thời gian, không gian, đối tượng. Cái gì đặt đúng nơi, đúng chỗ, hợp lý, vừa phải thì cái đó đẹp và có giá trị. Tính khế thời, khế lý, khế cơ cần phải được cân nhắc, áp dụng một cách nhuần nhuyễn cùng với tâm hạnh Từ Bi muốn chuyển hóa người khác tốt hơn và góp phần cho Pháp luân thường chuyển.

Một bài học cuối và tổng quát nhất đó là mọi sinh hoạt của người tu, chùa chiền, giáo hội, Tăng đoàn cần được tham chiếu và kiểm nghiệm từ hành hoạt chính cuộc đời Đức Phật, ý nghĩa sâu xa từ biểu hiện của Ngài, từ giáo Phápgiới luật do Ngài ban hành va sinh hoạt của Tăng già thời Đức Phật. Nếu ai đã có được nền tảng và có hệ quy chiếu đó thì chúng ta rất an tâm, phương tiện tùy duyên bất biến trong sinh hoạt, học Pháp, hành Pháp, hộ Pháp, hoằng Pháp. Đến lúc đó thì chúng ta có thể : “y Pháp bất y nhân” “Dù ai nói ngả nói nghiêng – Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Nay chúng ta ở thời cách Phật hơn 25 thế kỷ thì có Chánh PhápTượng Pháp. Trách nhiệm sàng lọc, chọn lựa, kế thừa và phát triển là ở nơi mỗi hành giảTăng già. Tự lực đi đôi với tha lực, khi tự lực phát triển đến mực độ cứng cáp, vững chãi thì lúc đó mới tận dụng được tha lực một cách tốt nhất mà không bị “cuốn theo chiều gió”. Tôi không phải bi quan hoặc nói quá, chỉ là lời nhắc nhở chung và cho chính mình về sự trá hình lẩn khuất và phát huy tác dụng của Tham Sân Si phiền não trong ta, về “vàng thau lẫn lộn” ở cõi Thánh Phàm đồng cư, về Tượng PhápMạt Pháp mà chính đức Phật thường chỉ dạy, về trách nhiệm của mỗi người khi được mệnh danh là Phật Tử, đối với nhân quả, tu học, Như Lai sứ giảgiải thoát.

Kỷ niệm Phật Đản Sanh không phải trong một ngày hoặc một tháng Tư là đủ mà Phật Đản cần luôn thể nghiệm từng thời khắc bên trong chúng ta : khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến. Hãy trở về, phát huy và sống với ông Phật bên trong của mình và mang đến cho đời nhiều nội dung Phật chất. Đó là tinh thần tri ân, báo ân, bổn phận của người con Phật trong lễ sinh nhật của Bổn Sư Từ Phụ như lời dạy của ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông :

“Bụt ở tronng nhà, Chẳng phải tìm xa,

Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt,

 Chỉn mới hay chính Bụt là Ta”.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú)

 

Mùa Phật Đản, PL 2561

Thích Đồng Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1317)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1215)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1277)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1297)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1937)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1312)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1327)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1206)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1449)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1289)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1185)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1148)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1190)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1203)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1333)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1060)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1051)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1113)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1242)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1276)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1037)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1155)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1098)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1231)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1225)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1355)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1433)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1199)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1188)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1331)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1352)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1277)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1578)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1247)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1263)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1290)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1150)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1180)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1290)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1408)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1471)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1628)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1485)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1406)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1175)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1280)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1251)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1313)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1283)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant