Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Bài Học Từ Cuộc Đời Đức Phật

26 Tháng Năm 201710:01(Xem: 7903)
Những Bài Học Từ Cuộc Đời Đức Phật

NHỮNG BÀI HỌC TỪ CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT

PhatDan__10_Mùa tháng Tư âm lịch là cao điểm tưng bừng Lễ Hội Vesak và Phật Giáo kỷ niệm Đức Phật đản sanh lần thứ 2641. Những đêm hội diễn văn nghệ, những ngày diễu hành xe hoa, rước xá lợi Phật, những lúc phát quà từ thiện,những bài diễn văn hội thảo ý tứ thâm sâu, lời kinh kệ ngân vang nơi các đàn tràng quần chúng,…tất cả đều trôi qua dần khi tháng Tư khép lại. Thế nhưng, dư âm mùa Phật Đản vẫn mãi còn đó. Những bài học từ cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn in sâu trong chúng ta trong hành trình theo dấu Như Lai, đường xưa mây trắng, trở về bảo sở.
Ngài vốn là Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất, đến với cuộc đời này bằng nguyện lực chớ không phải do nghiệp lực. Ngài quán sát thấy Vua Tịnh Phạn Vương và Hoàng Hậu Ma Gia đức hạnh cao vời, đang cầu con trai nên chọn 2 vị này làm Song ThânCa Tỳ La Vệ làm quê quán đản sanh.. Ngài vào đời với Lục Độ Ba La Mật như báo hiệu với voi trắng sáu ngà thuần khiết, vững vàng vào trong lòng Mẹ. Vậy nếu Phật tử muốn về Tây Phương Cực Lạc để thoát ra ngoài vòng sanh tử - đó cũng là điều tốt – nhưng ở nơi Cực Lạc chỉ là luyện công, tạm thời, quan trọng là khi đã vững vàng rồi thì tiếp tục dấn thân hội nhập vào cuộc đời. Nơi nào có bùn nhơ ô trược thì nơi đó có hoa sen thanh khiết. Nơi nào có chúng sanh khổ đau thì nơi đó có Bồ Tát ứng hiện hóa độ.

Ngài đản sanh gắn liền với những sự kiện hy hữu vi diệu : sanh từ hông bên phải, dưới cây hoa Vô Ưu, chín rồng phun nước, bảy bước trên hoa sen với câu tuyên ngôn nổi tiếng : “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Trên trời dưới đất, Ta là hơn hết, sanh tử vô lượng đến nay chấm dứt),(có rất nhiều cách ghi chép khác nhau về câu tuyên ngôn này). Đã có rất nhiều sự thảo luận liên quan đến những sự kiện này, tựu trung Ngài bao hàm cả hai phương diện : Đức Phật Tôn Giáo (có những yếu tố mang tính cao siêu huyền diệu, khác thường) và Đức Phật Lịch Sử ( những chi tiết rất thật gắn liền với lịch sử, với cuộc sống con ngườixã hội thời đó). Những sự kiện thiêng liêng đó hiện diện một phần là vì lối văn chương mô tả hình tượng hóa sống độngthể hiện sự tôn kính với các bậc siêu nhân, vốn đã có từ thời Áo Nghĩa Thư, Vệ Đà,…Dù gì đi nữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng là một nhân vật lịch sử, có thật, sinh vào khoảng năm 544 Trước Công Nguyên (TCN), đặc biệt được xác chứng bởi trụ đá vua A Dục (Asoka) của Ấn Độ vào khoảng 2 thế kỷ sau thời Đức Phật. Năm 249 TCN, khi vua A-Dục (Asoka) đến thăm Lâm Tỳ Ni, nó còn là một ngôi làng phồn thịnh, Ông đã cho xây dựng bốn ngôi tháp và một cột trụ bằng đá được khắc chữ và dịch ra như sau: "Ta là vua A Dục, là niềm tin tưởng của chư thiên, trong 20 năm trị vì này, ta đã thực hiện một chuyến thăm của hoàng gia đến nơi đức Phật được sinh ra tại đây…Lâm Tỳ Ni được giảm một phần tám thuế "

 

Thái Tử Tất Đạt Đa có một nền tảng giáo dục vững chắc, toàn diện, bao gồm nhiều phương diện : văn chương, triết học, tôn giáo, võ thuật, trị nước, kinh tế, chính trị, quân sự,…Một người thường như chúng ta thật khó mà giỏi nhiều phương diện như Thái Tử Tất Đạt Đa. Tuy nhiên, nếu được như vậy thì hành giả có một nền tảng vững chắc để học, hiểu Đạo, hành Đạo và hoằng truyền Giáo Pháp. Chúng ta thấy, trên bước đường Hoằng Pháp sau này của Đức Phật, Ngài dễ dàng chinh phục cảm hóa được ngoại đạo, vua quan, các hạng người khác nhau trong xã hội vì Ngài vốn có kiến thứckinh nghiệm về cuộc sống và sinh hoạt với họ kể từ khi Ngài còn là Thái Tử. Cho nên thời này, tùy theo khả năng và sở trường của mỗi người khác nhau, người tu sỹ nếu được huấn luyện và giỏi các ngành xã hội như : giáo dục, tâm lý, hành chánh, tôn giáo học, chính trị,… vẫn tốt và hoằng Pháp thích hợp hơn, có nền tảng vững chắc, đối chiếu liên hệ cuộc sống xung quanh song song với việc trau giồi nội điển Phật Pháp thâm hậu. Như thế hành giả vừa có thể làm ịch lợi cho xã hội thông qua các chuyên môn của mình, vừa gần gũi tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hộicảm hóa họ với Chánh Pháp, xứng đáng với Phật Giáo trong thời hiện đại, Phật Giáo với khoa học, Phật GiáoTôn Giáo tương lai toàn cầu theo như dự liệu của nhà bác học nổi tiếng Albert Einstein.

Sống trong cung vàng điện ngọc được bao bọc bởi bao nhiêu cảnh đẹp, tốt tươi, hưởng thụ và hạnh phúc nhưng Thái Tử vẫn luôn khắc khoải muốn tìm hiểu cuộc sống của dân chúng ngoài bốn cửa thành. Ngài bao nhiêu lần xin phép vua cha cho dạo ra ngoài thành để tiếp xúc với dân chúng và tìm hiểu đời sống người dân. Cuối cùng vua cha cho phép dạo bốn cửa thành và Ngài liền nhận ra nỗi khổ và thực tế cuộc đời. Đây là bài học sống động cho những ai bon chen, tranh danh đoạt lợi với nhiều thủ đoạn, “tính sao có lợi thì làm và sống chết mặc bay”. Dù có phước sẵn nhưng không mải mê thâu tóm, hưởng thụ cho phần mình mà quan tâm và chia sẻ chung với cuộc sống của mọi người, đó là đặc điểm của các bậc vĩ nhân. Vậy chúng ta càng tiếp xúc, trải nghiệm hiểu thực tế cuộc đời bao nhiêu, càng bớt đắm say với thế gian bấy nhiêu và do đó sẽ dễ tu hơn. Nếu những ai không ngộ ra các bản chất cuộc sống và các pháp hữu vi vốn : “Khổ, Vô Thường, Vô Ngã” rồi ngày mai ta trở về cát bụi thì dễ dính chấp và khó tu. Đó cũng một phần giải thích lý do tại sao người tuổi già đi chùa nhiều hơn tuổi trẻ, bởi vì người lớn tuổi đã từng trải cuộc đời không còn quá khao khát đam mê tìm kiếm nữa và họ không còn háo hức, đắc thắng nữa mà đối diện với tuổi già, sức yếu, những giới hạn của đời người, những khổ đau phũ phàng và một chuyến ra đi bất định…Mục kích cảnh : Già, Bệnh, Chết, Tu Sỹ ( chắc là tu sỹ của Bà La Môn), khiến Thái Tử Tất Đạt Đa trầm tư về kiếp người, về những câu hỏi rất ư là triết học : con người từ đâu đến, sống ở đây để làm gì, rồi chết đi về đâu? Tại sao ai cũng chịu cái quy luật vô thường và tàn phai như thế, có cách gì thoát ra được cái vòng luẩn quẩn sanh già bệnh chết đó không? Những suy tư này có vai trò rất lớn, làm động lực cho Thái Tử xuất gia, đi tìm và ngộ được chân lý sau này.

Sự xuất gia của Ngài là một cuộc thoát ly vĩ đại, xa cha già, mẹ yếu, vợ đẹp, con thơ, ngai vàng, sơn hà, xã tắc, từ người tột đỉnh cao sang, có tất cả để trở thànhhành khất lang thang, không có gì hết ngoài y rách và cái bát khất thực nuôi mạng sống qua ngày. Nếu như chúng ta ở vào vị trí của Ngài, thật khó để chúng ta có thể xuất gia được như Ngài. Đó là hình ảnh một người thiết tha tầm cầu chân lý và không màng gì nữa nơi thế gian này. Xuất gia trong tư thế: có tất cả mà buông bỏ tất cả, hy sinh tất cả những đặc quyền đặc lợi của mình, cắt đứt tất cả mọi ràng buộc thế giantâm nguyện cao cả tìm ra ánh sáng, mang hạnh phúc chân thật đến mọi người. Có nhiều phật tử, khi lo trả nợ tương đối xong thế gian rồi, nhưng có dám buông bỏ tất cả để đi xuất gia không hay là tự tạo và ôm thêm những món nợ mới không đáng có? Ngay cả việc đi xuất gia gieo duyên vài ngày mà họ cũng lo, cũng tính, cũng phân vân đủ thứ. Còn tiếc, còn ham, còn chấp, còn giữ, khó buông vậy thì làm sao mà gần với Đạo? Hạnh phúc là xả ly thanh thản,ban cho chứ không phải hạnh phúc là thâu tóm, hoặc bo bo ôm đồm nắm giữ cho riêng mình.

Khi xuất gia, Ngài đã “xả phú cầu bần”, thân  vàng vóc ngọc của Ngài lại chu du khắp nơi tầm sư học đạo, thiên lý tầm sư từ Lâm Tỳ Ni cho đến núi Tuyết Sơn, Ni Liên Thuyền, Bồ Đề Đạo Tràng,…Ngài đi bộ, gai cào xước hết chân, chảy máu, còn ngày nay chúng ta thì sao? Đúng là : Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (chí sỹ Nguyễn Bá Học). Chúng ta có nhiều phương tiện giao thông thuận tiện nhưng có tận dụng mọi cơ hội để tham vấn học Đạo với các bậc cao nhân, chân nhân, cao Tăng thạc Đức không? Phương tiện internet, DVDs, youtube, facebook,… sẵn có nhiều đó mà mỗi ngày chúng ta học được bao nhiêu bài Kinh? Phương tiện đã có sẵn mà không lo học Đạothực hành, phan duyên trần cảnh, chơi nhiều hơn học, tò mò khám phá thế gian thay vì chân lý giải thoát, đó là phóng dật, dễ duôi, phung phí cơ hội. Chỉ có Trí Tuệ mới là sự nghiệp, mỗi người phải nghe, đọc nhiều, suy tư, thảo luậnthực hành thì mới phát sanh Trí Tuệ. Không ai ban cho Trí Tuệ được, không có Trí Tuệ thì giác ngộ, giải thoát mãi mãi xa vời.

Ngài không thỏa mãn và dừng lại giững chừng khi chưa đạt được mục tiêu đặt ra từ ban đầu. Tâm lý này chúng ta dễ có, sau một thời gian phấn đấu, chúng ta có một số kết quả khả quan nào đó, ví dụ hiểu biết được một số kinh sách, có chùa to, Phật lớn, đệ tử đông, chức vụ lớn,…liền tự cho phép mình “nghỉ giải lao” và hưởng lai rai với lời tự an ủi : dù gì thì mình cũng có cống hiến cho Phật Giáo xưa nay và còn đang tiếp tục giúp cho người khác tu học, dù mình có hưởng thụ lai rai để ổn định, an vui và cống hiến âu đó cũng là điều tự nhiên của một cơ thể sinh vật lý, mình đâu phải là một cái máy, sắt thép vô cảm, chắc cũng không sao. Phiền não tham, sân, si luôn ngủ ngầm, tiềm ẩn và chờ cơ hội thì bùng dậy, trùm phủ lên và phá hủy tất cả.  Trường hợp Bồ Tát Tất Đạt Đa được 2 vị Thầy Alara Kalama và Uddaka Ramaputta đạt chỗ cao nhất về cảnh giới Vô Sở Hữu XứPhi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiền xác chứng :

“Này đạo hữu Gotama, tôi vô cùng hoan hỉ được có một người bạn đồng tu tài đức đáng tôn kính như đạo hữu. Những gì tôi đã hiểu biếtchứng ngộ thì nay đạo hữu cũng đã hiểu biếtchứng ngộ như tôi. Vậy thì đạo hữu hãy ở lại đây cùng tôi dẫn dắt nhóm đạo sĩ này”.

Thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục từ giã ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của chân lý cứu khổ độ sanh. Trên đường tu tập, chúng ta hãy cẩn thận xem có thể vướng vào bẫy : Danh – Lợi – Tình bất cứ lúc nào khi chúng ta có được một số phước và sự tôn kính nhất định nào đó. Ngài đã vượt thoát ra tất cả mọi cám dỗ vi tế và “không ngủ quên trên chiến thắng”. Nói theo cách của Ông Steve Jobs, “hãy cứ khát khao và hãy cứ dại khờ”, vẫn mãi khát khao đi tìm chân lý tối hậu và vẫn mãi “dại khờ” vì làm kẻ cô thân chích ảnh, an bần thủ đạo, không hưởng các phước hữu lậu khi đang ở tư thế để hưởng thụ dục lạc sẵn dành xung quanh.

 

Ngài đã trải qua 6 năm tu học miên mật và 49 ngày đêm thiền tọa bất động dưới cội Bồ Đề. Quả thật đúng với câu nói : Đường đi đến thành công không dành cho những người lười biếng và cũng không lót đầy những đóa hoa hồng, hoặc như Tổ Sư Hoàng Bá nói : nếu chẳng bao phen sương buốt lạnh – Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương. Hành giả phải từng giờ từng phút thực hành tu tập, kiên định trên con đường đi, tập khí sanh từ phiền não từ vô thủy đến nay dày bao nhiêu lớp lớp, thì lực phá vỡ nó cũng đòi hỏi phải công phu dày dạn đủ lớn mạnh để làm phản lực xứng tầm. Công việc chính của người tu là tự soi xét lại mình, chuyển hóa thân tâm hướng thiện, hướng thiện, trau dồi Giới Định Tuệ đến ngày công viên quả mãn thì tâm thức sẽ được bừng vỡ khai ngộ với chân lý. Thế giới hiện nay, pháp môn nhiều, hứa hẹn nhiều, phỉnh dụ nhiều nhưng chúng ta hãy đối chiếu lời dạy và pháp môn của họ có giống với những gì mà Đức Phật Thích Ca đã trải qua trên đường tu tập hay không? Nghe thì nghe nhưng chúng ta phải tham khảo đổi chiếu rồi tự mình rút ra kết luận. Nếu pháp môn nào mà không bao hàm Giới Định Tuệ và chuyển hóa thân tâm, trừ phiền não Tham Sân Si thêm Từ Bi Hỷ Xả thì coi chừng pháp môn ấy lệch lạc và mị dân. Tấm gương Ngài đã vượt qua mọi loại ma chướng là lời cảnh tỉnhđộng lực cho chúng ta mỗi khi gặp nghịch duyên, trở ngại và chấp nhận chúng là những điều tất yếu phải đối diệnvượt qua. Những thử thách đó chúng ta sẽ gặp thôi, sớm hoặc muộn, đúng ra chúng ta phải cảm ơn nghịch cảnhma chướng giúp chúng ta có cơ hội bồi dưỡng công lực, tôi luyện và trưởng thành. Khi hành giả trước sau son sắt : “ Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, “thắng một vạn quân địch không bằng tự thắng được lòng mình”, nếu không có nội ma, tâm ma mở đường dẫn lối thì thế lực ma quân nào có thể làm lung lay hay quật ngã được ta?

Khi Sao Mai vừa mọc, canh ba, đêm thứ 49 dưới cội Bồ Đề Ngài chứng tam minh lục thông, ngộ đạt chân lý tột cùng và lên ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng, Chánh Giác, Phật – Thế Tôn. Khi chúng ta chưa có gì liên quan đến Tam MinhLục Thông, còn “phàm phu chay” thì có gì tự cao tự đắc? Hãy đề phòng tính tự mãn trong việc tích lũy những lời dạy của Như Lai rồi pha trộn hỗn tạp rao bán tô bồi cho bản ngã và vì mục tiêu lợi dưỡng. Khi hành giả chứng ngộ thì thông tỏ vạn phápchân lý lưu xuất từ nội tâm tịch tịnh thấu đạt một cách tự nhiên, còn những uy nghi đạo mạo cố chứng tỏ ta là người thông thái, hơn người, ta là thánh nhân, siêu nhân, “ngồi riêng một chiếu” trong khi phiền não đầy người, rối rắm ngổn ngang – đó chỉ là màn diễn rẻ tiền ảo tưởng lừa mình, lừa người. Bệnh ảo tưởng và hoang tưởng lâu ngày tưởng là thật đến nỗi chính họ cũng tin họ có năng lực siêu tuyệt, độc nhất. Thuyết giảng nhiều, nhưng nếu không thông, chính mình trước sau mâu thuẫn thì làm sao người nghe được sáng tỏan tâm tu tập? Hội Đồng Điều Hành và Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo các quốc gia cần phải có Ban Chuyên Môn nghiên cứu kỹ lưỡng và thẩm định giá trị chân lý trong bài “Pháp Thoại” của nhiều vị “giảng sư” để tránh tình trạng ảo tưởng chứng đắc, siêu tuyệt độc nhất với những lời sấm phán với tâm thức đảo lộn gây hoang mang bao nhiêu người Phật tử - nhất là ở thời công nghệ thông tin, tốc độ lây lan quá nhanh, khó lòng kiềm chế. Do đó, các vị giảng sư ( trong đó có tôi) cần phải nên không ngừng thực tập, có chiều sâu nội điểnthực chứng chứ không đơn thuần cậy vào tài xảo ngôn, thông minh, duy lý của mình, có sự khác biệt giữa ngộ nhập chân lý và đoán mò tán diễn chủ quan.

Sau khi chứng ngộ dưới cội Bồ Đề, bước đường vân du giáo hóa hơn 45 năm của Ngài để lại cho chúng ta rất nhiều bài học. Trước hết đó là “nhạo thuyết” (ưa thích nói Pháp). Chúng ta học hỏi tinh thần này không phải đợi lên bàn giảng sư với chuông trống bát nhã, hai hàng cung nghinh, khay lễ đưa đón mới là “Pháp Thoại” mà trong cuộc sống một ánh mắt, một nụ cười, một lời khuyến khích sẵn sàng gieo duyên đến với mọi người, mọi nơi một cách bình đẳng, tự nhiên không tính toán. Những câu nói nghe có vẻ “rất thường tình” nhưng hàm chứa chất liệu giáo Pháp và đưa ra đúng nơi, đúng chỗ, có tác dụng trị liệu chuyển hóa thân tâm người nghe theo chiều hướng tốt đẹp, đó là hoằng Pháp. Bây giờ các giảng sư “nổi tiếng” quen diễn ở “xô lớn” (show lớn) không chấp nhận diễn ở những “xô nhỏ” ít người nghe, hoặc thờ ơ, vô cảm, làm biếng nói với từng người “thường dân” đơn lẻ và thậm chí cái bệnh ngôi sao nổi lên, người ấy cố tình tạo cảm giác “khó gặp”, có vậy mới hiếm và quý. Ngày xưa đức Phật ngồi thiền quán sát cơ duyên từng chúng sanh để chủ động đến tiếp cận họ và hóa độ chứ có đâu mà mọi người chầu chực chờ gặp Pháp sư như chầu cửa quan? Tất nhiên tôi hiểu, những vị đó tự ngụy biện hoặc an ủi mình là : thời giansức lực có hạn, không thể “xài phung phí vô tư” mà để dành “làm việc lớn”, lợi ích cho nhiều người và lâu dài. Thế nhưng, tính toán quá lại nảy sinh những tác dụng phụ mang tính cách phân biệt đối xử, mất đi tính Từ Bi Hỷ Xả hòa ái, gần gũi của tu sỹ, vốn là hành giả hành khất lang thang, tùy duyên hóa độ vô cầu. Ngược lại, cũng không nên mang cái bệnh “giảng sư”, ở chỗ nào mình cũng làm “Thầy” chỉ đạo, giảng giải quá nhiều, không hợp với thời gian, không gian, đối tượng. Cái gì đặt đúng nơi, đúng chỗ, hợp lý, vừa phải thì cái đó đẹp và có giá trị. Tính khế thời, khế lý, khế cơ cần phải được cân nhắc, áp dụng một cách nhuần nhuyễn cùng với tâm hạnh Từ Bi muốn chuyển hóa người khác tốt hơn và góp phần cho Pháp luân thường chuyển.

Một bài học cuối và tổng quát nhất đó là mọi sinh hoạt của người tu, chùa chiền, giáo hội, Tăng đoàn cần được tham chiếu và kiểm nghiệm từ hành hoạt chính cuộc đời Đức Phật, ý nghĩa sâu xa từ biểu hiện của Ngài, từ giáo Phápgiới luật do Ngài ban hành va sinh hoạt của Tăng già thời Đức Phật. Nếu ai đã có được nền tảng và có hệ quy chiếu đó thì chúng ta rất an tâm, phương tiện tùy duyên bất biến trong sinh hoạt, học Pháp, hành Pháp, hộ Pháp, hoằng Pháp. Đến lúc đó thì chúng ta có thể : “y Pháp bất y nhân” “Dù ai nói ngả nói nghiêng – Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Nay chúng ta ở thời cách Phật hơn 25 thế kỷ thì có Chánh PhápTượng Pháp. Trách nhiệm sàng lọc, chọn lựa, kế thừa và phát triển là ở nơi mỗi hành giảTăng già. Tự lực đi đôi với tha lực, khi tự lực phát triển đến mực độ cứng cáp, vững chãi thì lúc đó mới tận dụng được tha lực một cách tốt nhất mà không bị “cuốn theo chiều gió”. Tôi không phải bi quan hoặc nói quá, chỉ là lời nhắc nhở chung và cho chính mình về sự trá hình lẩn khuất và phát huy tác dụng của Tham Sân Si phiền não trong ta, về “vàng thau lẫn lộn” ở cõi Thánh Phàm đồng cư, về Tượng PhápMạt Pháp mà chính đức Phật thường chỉ dạy, về trách nhiệm của mỗi người khi được mệnh danh là Phật Tử, đối với nhân quả, tu học, Như Lai sứ giảgiải thoát.

Kỷ niệm Phật Đản Sanh không phải trong một ngày hoặc một tháng Tư là đủ mà Phật Đản cần luôn thể nghiệm từng thời khắc bên trong chúng ta : khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến. Hãy trở về, phát huy và sống với ông Phật bên trong của mình và mang đến cho đời nhiều nội dung Phật chất. Đó là tinh thần tri ân, báo ân, bổn phận của người con Phật trong lễ sinh nhật của Bổn Sư Từ Phụ như lời dạy của ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông :

“Bụt ở tronng nhà, Chẳng phải tìm xa,

Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt,

 Chỉn mới hay chính Bụt là Ta”.

(Cư Trần Lạc Đạo Phú)

 

Mùa Phật Đản, PL 2561

Thích Đồng Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2503)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2040)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2476)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1821)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1903)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2190)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2716)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1628)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1553)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1738)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1574)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2158)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2305)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2006)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1799)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1714)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1902)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1639)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2604)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1759)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2106)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2097)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2429)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1742)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1920)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1798)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 1969)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2539)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3572)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2224)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2241)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1620)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1918)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2264)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2257)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2105)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3049)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2079)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2478)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2001)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1927)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2135)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2414)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 1987)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2390)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2331)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2910)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1998)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1899)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2214)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant