Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngôn NgữSự Thật

27 Tháng Năm 201721:11(Xem: 5946)
Ngôn Ngữ và Sự Thật

NGÔN NGỮSỰ THẬT

 

Vĩnh Hảo

 

Từ vụ Đại Bùng nổ (Big Bang) đến kỷ nguyên gọi là “Bùng nổ Thông tin” (the Information Explosion) cách nhau khoảng 15 tỉ năm.

Vũ trụ theo lý thuyết Big Bang đã theo thời gian giãn nở, bành trướng không cùng tận. Ngày nay chúng ta thấy sự bùng nổ thông tin cũng trong tiến trình khuếch trương, mở rộng, không giới hạn. Nhưng thế giới loài người trên hành tinh nầy, chỉ là một hạt bụi nhỏ trong hàng tỉ tỉ định tinh và hành tinh trong vô số thiên hà… Nghiệm về thời giankhông gian vô cùng tận của vũ trụ để thấy thân phận nhỏ nhoi của trái đất, và của lịch sử văn minh loài người (kể từ khi bắt đầu đời sống nông nghiệp, và có chữ viết—sớm nhất là từ 5000 năm cho đến 8000 năm trước công nguyên). Vũ trụ mênh mông vô hạn như thế, cho nên Trần Tử Ngang (thời Sơ Đường, thế kỷ thứ 7, chưa có thuyết Big Bang) nhìn trời nhìn đất bằng mắt thường mà đã “niệm thiên địa chi du du” (1) rồi.

Thử nhìn lại từ thuở phôi thai của ký họa, ký tự, văn tự cho đến thời đại “bùng nổ thông tin” ngày nay, văn học thế giới đã từng nhiều lần canh tân, cách tân qua những trào lưu hiện đại, hậu hiện đại, (và chuẩn bị cho) hậu-hậu hiện đại… đã tiến đến mức nào? Và phải chăng vì “thông tin” bùng nổ, tràn lan, “quá tải” (information overload) đã giết chết văn họcnghiễm nhiên chiếm lĩnh các văn đàn, thi đàn, diễn đàn liên mạng? Chính vì thông tin quá tải mà người ta chỉ đọc vội vàng, qua loa những gì hấp dẫn, “nóng sốt,” chẳng còn thời giờ đâu mà nhẩn nha đọc thơ, đọc truyện, thưởng thức văn chương thi phú. Thông tin bùng nổ rất bổ ích cho việc “truyền thông” tự dotrung thực tin tức của mọi quốc gia, châu lục, và đồng thời cũng rất có hại cho những chính quyền độc tài, toàn trị, gia đình trị; rất bổ ích cho người chịu khó học hỏi, cầu tiến, và rất hại cho kẻ lười biếng tư duy, điên cuồng bảo vệ niềm tinthói quen tôn thờ lãnh tụ của mình.

Nhìn chung, thế giới chữ nghĩa hiện nay, thông tin nhiều, thông hiểu ít; văn tự nhiều, ý nghĩa cạn; nói nhiều, làm không bao nhiêu, hoặc nói mà không làm, hoặc nói một đàng làm một nẻo; nói khoác lác khoa trương hình thức thì nhiều, thực chất thì rỗng tuếch… Phương tiện thông tin thì vô hạn, ai cũng có thể mở một hay nhiều tài khoản (accounts) trên mạng, đăng tin, đăng thơ văn của mình, đạo thơ văn của người (cố ý hay vô tình), đăng hình ảnh, đăng chuyện riêng tư, đăng chuyện thiên hạ (tôn giáo, chính trị, xã hội)… Từ một tổng thống (uyên bác hay ít học) cho đến những kẻ nghèo cùng (trí thức hay học ít), đều bình đẳng như nhau: ai cũng có một trang riêng, một thế giới riêng của mình để tự giới thiệu bản ngã, tên tuổi, đời sống cá nhân hay những gì mình làm, bênh vực hoặc chỉ trích người khác, để rồi tạo nên những diễn đàn đánh phá, công kích lẫn nhau. Rồi có chuyện tin giả, tin thật. Lại có chuyện “bôi nhọ lãnh đạo” (của tôn giáo hay chính quyền) để rồi có lệnh cấm. Thế giới thông tin, chữ nghĩa đúng là đã bùng nổ. Không chuyện gì có thể giấu mãi. Không chuyện gì có thể được lượng giá một chiều. Thật-giả, vàng-thau lẫn lộn, hỗn tạp, nhốn nháo, ồn ào trên một sân chơi mở rộng. Nhưng tin thật hay tin giả, rồi cũng được sàng lọc theo thời gian, theo nhận thức chín chắn của mọi người. Cuối cùng, bên dưới, và đàng sau những ngôn từ, vẫn là sự thật (của thế giới tương đối), là chân lý (của cảnh giới tuyệt đối).

Ngôn ngữ thực ra chỉ là bóng dáng của sự thật. Ngôn ngữ được sử dụng để nói về sự thật, hướng dẫn truy tìm sự thật. Chức năng của ngôn ngữtìm cách đặt tên, gọi tên sự thật, nên muôn đời ngôn ngữ chỉ là biểu tượng của sự thật chứ không phải sự thật. Nhưng không có ngôn ngữ, người ta cũng không thể nào tiếp cận được sự thật. Vì vậy, ngôn ngữ một thời hầu như chỉ được sử dụng bởi những đầu óc uyên thâm: nhà hiền triết, nhà đạo, nhà ngôn ngữ, nhà “phù thủy ngôn ngữ,” nhà văn, nhà thơ… như là những mật ngôn thiêng liêng có thể chạm đến những tầng trời cao ngất, những chìa khóa vạn năng có thể mở vào các cảnh giới nội tâm sâu thẳm. Ngày nay, hầu như tất cả mọi người đều được quyền bình đẳng sử dụng ngôn ngữ của mình trên một mạng lưới trùm khắp cõi nhân gian phức tạp, nhầy nhụa. Và một khi, ai cũng có thể cất được tiếng nói, sự thật càng khó hiển bày. Mặt khác, nhu cầu sinh hoạt liên mạng toàn cầu cũng đòi hỏi thứ ngôn ngữ “bá nạp,” hỗ lốn, dón gọn, vắn tắt, giống như những ký hiệu, đầu tự ngữ (acronym) để dân xứ nào cũng có thể hiểu được, hoặc đoán ra được; cho nên, ngôn ngữ (và văn hóa) đặc thù của mỗi sắc dân đang trên đà biến hoại để tiến dần đến một thứ ngôn ngữ (và văn hóa) chung.

Giữa ngôn ngữsự thật là một lớp cách ly sâu dầy, nay lại phủ thêm nhiều lớp sương mù từ tính cách thật/giả, trung thực/ngoa ngụy, sang cả/nghèo mạt… Có những sự thật bị giấu kín từ lâu, nay phơi bày hiển nhiên khiến người ta ngỡ ngàng, kinh ngạc, xúc động; nhưng phơi bày nhiều quá và lặp đi lặp lại quá nhiều lần đến độ những gì tốt đẹp nhất hay tệ hại nhất cũng trở thành phổ thông, bình thường, thì nhận thứccảm xúc của con người sẽ trở nên trơ lì, vô cảm. Từ cảnh giới liên mạng nầy, những gì huyễn ảo trở nên rất thật, những gì trung thực trở nên rất ảo. Người ta phải thật sáng suốttinh tế mới có thể nhìn xuyên thấu những lớp sương mù dầy đặc của ngôn ngữ, văn tự, ký hiệu… để nhận chân được sự thật của đời sống.

sự thật trên đời, sau màn ảnh của máy vi tính, máy tính bảng, điện thoại di động… là vẫn có hàng chục triệu trẻ em thiếu dinh dưỡng, đã và sắp chết đói ở châu Phi. Sự thật là hàng mấy trăm triệu cho đến một tỉ người dân suốt đời, qua bao thế hệ, vẫn chưa thấy được tự do no ấm thực sự trên quê hương của thi sĩ Trần Tử Ngang—kẻ từng rơi lệ khóc một mình (1). Sự thật là trên hai chục triệu người dân phải còng lưng làm việc đầu tắt mặt tối (vẫn không đủ ăn) để nuôi dưỡng một chế độ độc tài tập quyền, cha truyền con nối tại một nước hung hăng lấy vũ khí hạt nhân ra để buộc thế giới quan tâm. Sự thật là ngay trên xứ sở được cho là hùng mạnh, văn minh hàng đầu thế giới, vẫn có hàng triệu người thất nghiệp, thiếu ăn, không nhà, và đâu đó vẫn còn nạn kỳ thị chủng tộc bởi những người tự cho mình là hàng thượng đẳng (supremacy). Sự thật là hàng chục triệu người dân nghèo đói, thất nghiệp triền miên, tiếp tục đấu tranh, biểu tình đòi tự do dân chủ tại một nước Nam Mỹ đang hăm hở tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự thật là các cuộc chiến từ những quốc gia Trung Đông đã tạo nên làn sóng tị nạn chưa từng có, với hàng triệu người di cư đường bộ, đường biển; và riêng tại Syria đã có hơn 300 ngàn người chết vì bom đạn. Sự thật là hàng mấy chục triệu người dân vẫn tiếp tục chịu đựng sự mất chủ quyền làm dân, mất chủ quyền trên lãnh hải lãnh thổ của mình, mất tất cả quyền căn bản của con người trên chính xứ sở được mệnh danh bốn ngàn năm văn hiến. Sự thật là hàng triệu người dân ven biển phải bị trắng tay, thất nghiệp, chịu ảnh hưởng môi trường nhiễm độc nhiều thế hệ để làm giàu cho một chế độ chỉ biết thỏa hiệp làm lợi cho tư bản nước ngoài, thậm chí bán đất bán biển do tổ-tiên để lại… Như vậy, như vậy, những sự thật càng lúc càng được phơi bày rõ ràng, cụ thể hơn, nhưng những kẻ vô tâm, man trá, vẫn hả hê sung sướng, mặc tình bao thống khổ của lương dân, tiếp tục bòn rút, thụ hưởng những đặc quyền đặc lợi cho cá nhân, gia đình, thân tộc, và bè đảng của mình.

Ngôn ngữ nhân gian bây giờ như thế. Những dối trá thì được nhà cầm quyền ca tụng, bắt người dân phải tin là thật, trong khi sự thậtchứng cớ rõ rệt khi được báo động lên mạng, không đúng ý và chủ trương của lãnh đạo thì bị cho là tin giả, tìm cách bôi xóa, ngăn chặn, kết tội phản động, phản quốc. Thống khổ nhãn tiền đã không được nói đến cặn kẽ, không tìm ra được những phương lược giải quyết, dù chỉ tương đối trên bề mặt hiện tượng; trong khi những từ ngữ trừu tượng như văn minh, văn hóa, độc lập, tự do, hạnh phúc thì càng trừu tượng xa vời hơn bao giờ. Giá trị nội tại của các từ ngữ nầy đã bị đục ruỗng và trống hoác bên trong, không còn gợi lên chút gì để mà liên tưởng.

Ngôn ngữ nhân gian đã thế, ngôn ngữ nhà đạo cũng không kém phần xa vời, khô khan, sáo rỗng. Có thể nói thật nhiều về “Khổ đế” (2) mà không liên kết, bao hàm được nỗi thống khổ vô vàn của đồng loại chung quanh. Có thể nói thật nhiều về “vô ngã” mà càng lúc càng thấy cái ngã bành trướng, khuếch trương, bùng nổ y như cách thế vận hành của Big Bang, hoặc gần hơn như vụ Bùng nổ Thông tin, về chính cá nhân mình. 

Làm sao mà ra nông nỗi như vậy! Chỉ vì ngôn ngữ, hay vì mạng lưới thông tin? Có thể nào dẹp hết ngôn ngữ văn tự chăng? Có thể nào cất bỏ các mạng lưới chăng? — Không. Ngôn ngữ tự nó không hại, phương tiện truyền đạt ngôn ngữ cũng không tệ. Tệ hại hay không là do chính người sử dụng, và người đọc, người nghe.

Vậy, với tình trạng của ngôn ngữsự thật ngày nay, nhà đạo sẽ nói gì, sử dụng phương tiện thiện xảo nào để truyền đạt lý tưởngcon đường cao đẹp của mình? — Chắc chắn vẫn là lần theo dấu vết của người xưa mà trực nhận chân lý. Như Tăng Duệ trong bài Tựa viết cho Trung Luận, từng nói “Cái Thật mà không được nêu danh thì không thể tỏ ngộ” (3). Mặt trăng mà không có ngón tay hướng dẫn cũng khó nhìn thấy (4). Nhưng đừng mãi chấp vào cái danh (tên, ngôn ngữ, văn tự, ký hiệu…); cũng đừng ba hoa về ngón tay khi chính mình không chịu nhìn về hướng trăng; cũng đừng trách ngón tay sao không phải là mặt trăng.

Thực ra thì một lúc nào đó sẽ không cần ngón tay nữa mà vẫn có thể thấy trăng, ngắm trăng. Ngôn ngữ cũng vậy, chỉ là phương tiện để hiển thị sự thật; khi đạt được sự thật, ngôn ngữ sẽ không còn cần thiết. Nhưng ngôn ngữ, chính nó cũng là sự thật trong thế giới tương đối. Ngôn ngữđời sống của nó, dù là tử ngữ hay sinh ngữ; và đời sống của ngôn ngữ cũng có thật như đời sống của nhân loại. Nó vừa là những ký hiệu giả địnhdiễn đạt về một sự thậtđồng thời chính nó cũng là một sự thật. Sự thật của ngôn ngữ tạo nên nền văn học của quốc giathế giới, đồng hành với nhân loại qua bao lịch sử thăng trầm; và thường khi chính văn học (phân thân, hóa thân của ngôn ngữ) đã góp phần thăng hoa, giải thoát con người khỏi cuộc đời khổ đau nầy.

Chỗ diệu dụng của nhà đạo là làm sao có thể cất được tiếng nói như thực, sao cho tiếng nói ấy không quá xa rời sự thật. Tránh nói quàng xiên về những gì mình không làm được; vì càng nói nhiều về cái không biết, không hiểu, không chứng, chính ngôn ngữ nhà đạo cũng trở thành xảo ngôn, sáo ngữ. Hãy tôn trọng ngôn ngữ như đã tôn trọng sự thật. Hãy nói lời trung thực; bằng không, hãy im lặng.

Dù thế nào, trăng vẫn luôn hiển hiện trên vòm trời xuân, hạ, thu, đông; vẫn thơ mộng như dáng kiều tha thướt đi qua nghìn năm thiên cổ lụy; vẫn luôn soi chiếu trên sông biển mênh mông lai láng… Năm xưa trăng mọc trên sông Niranjara (5) thế nào thì nay vẫn thế. Sông cạn, núi mòn, vẫn còn một vầng trăng vằng vặc soi sáng đất trời bao la.

 

California, ngày 27.5.2017

Vĩnh Hảo

(www.vinhhao.net)

 

______________

 

(1) Trong bài “Đăng U Châu Đài Ca” của thi sĩ Trần Tử Ngang:

“Tiền bất kiến cổ nhân,

Hậu bất tri lai giả.

Niệm thiên địa chi du du

Độc thương nhiên nhi lệ hạ.”

Vĩnh Hảo dịch:

Bài ca lúc lên đài U Châu

Ngoảnh trước người xưa không thấy

Ngoái sau người mới chưa sinh

Nghiệm lẽ mang mang trời đất

Bất chợt lệ sa một mình.

 

(2) Khổ đế là một trong Tứ đế (4 Sự Thật Cao Quý, giáo lý nền tảng của Phật giáo)

(3) Trung Luận — Tuệ Sỹ dịch. “實非名不悟” Thật phi danh bất ngộ.

(4) “…Kinh pháp cũng chỉ như ngón tay chỉ mặt trăng, hãy nhìn mặt trăng và biết ngón tay không bao giờ là mặt trăng cả; biết mọi ngôn ngữ của Như lai chỉ dạy cho bồ tát toàn là như vậy.” (Kinh Viên Giác, phẩm Thanh Tịnh Tuệ, HT. Thích Trí Quang dịch)

(5) Sông Ni-liên-thuyền, nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo.

Ý kiến bạn đọc
29 Tháng Năm 201701:12
Khách
Rất hay .

Chân thành cảm ơn với tất cả sự trân trong

Phật tử Thiện tài
28 Tháng Năm 201715:28
Khách
Đạo khả đạo phi thường đạo
Danh khả danh phi thường danh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9399)
Thở vào để hàm dưỡng sinh lực, thở ra với lòng lành hướng về tất cả chúng sinh.
(Xem: 9293)
Đừng nói sáo ngữ rằng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, khi chúng ta tiếp tục tham lam, theo đuổi không ngừng ý muốn chiếm hữu, tranh đoạt cho phần mình.
(Xem: 8599)
Chúng ta cần phải lưu ý đến một điểm thật quan trọng và tế nhị là dù mình đã đạt được nhiều kinh nghiệm luyện tập thiền định.
(Xem: 9398)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt, thì không tốt-đẹp cho bằng người chỉ sống một-ngày mà hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 8077)
Không phải ngẫu nhiênĐức Phật xem việc gần gũi vua quan là nạn, và mạnh mẽ cảnh tỉnh chúng Tăng: “Gần gũi bậc vua chúa vương gia có mười việc phi pháp”.
(Xem: 8980)
Đức Thánh Thiện không thù ghét người Trung Hoa. Như một vấn đề thực tế, ngài tha thứ họ và không để lòng gì cả.
(Xem: 9358)
Thực hành tính nhẫn nại với động cơ bồ-đề tâm được coi là nhẫn nại ba-la-mật hay sự nhẫn nại hoàn hảo.
(Xem: 8789)
Một trong những khổ đau dai dẳng của kiếp người là sự lo sợ, lo nghĩ, lo phiền, ưu tư, sầu muộn.
(Xem: 9126)
Theo quan điểm của giáo lý Phật giáo sự bất công trong đời sống chứa đựng nhiều nguyên nhân. Có những nguyên nhân...
(Xem: 21097)
Trăm năm trước thì ta chẳng có, Trăm năm sau có cũng như không. Cuộc đời sắc sắc không không, Trăm năm còn lại tấm lòng từ bi
(Xem: 8788)
Ban rải lòng từ, đem tình thương đến với mọi người, mọi loài và nỗ lực bảo vệ sự sống là sứ mạng của những người con Phật.
(Xem: 9247)
Bước vào con đường tu tập Dhamma (Đạo Pháp) mà không giữ được quân bình giữa sự tập trung (concentration/sự chú tâm) và sự quán thấy (discernement/sự nhận thức) thì ...
(Xem: 8609)
Một số người có duyên lành trải qua kinh nghiệm cận tử, sau khi thoát nạn thì thay đổi hoàn toàn từ nhận thức, quan niệm sống đến hành xử theo hướng thiện lành.
(Xem: 8812)
Kodo Sawaki (1880-1965) hay “Kodo-Kẻ không nhà”, là một trong những vị thiền sư phái Tào Động (Nhật Bản) có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX.
(Xem: 10478)
Từ bùn lầy hoa sen vươn lên và nở hoa thơm ngát, cũng vậy, ai cũng có khả năng giác ngộ giải thoát như nhau.
(Xem: 8933)
Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã ...
(Xem: 9923)
“Vô Thường! Vô Thường!” Đây là đặc tính vi diệu, khó thấy thứ nhất của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng.
(Xem: 9326)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng...
(Xem: 8677)
Chúng ta phải làm thế nào để có thể quán thấy thật minh bạch năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) - tức là cả cái khối "thân-xác-tâm-thức" gây ra đủ mọi thứ khổ đau và căng thẳng.
(Xem: 8482)
Qua các thời kỳ thật xa xưa, kể cả thời đại khi Đức Phật còn tại thế, nhiều phụ nữ cũng đã đạt được chánh quảtrở thành arhat/A-la-hán
(Xem: 9075)
Trong cuộc đời luôn có nhiều hoàn cảnh trái ngược nhau với nhiều nỗi niềm mà con người phải trải qua.
(Xem: 8266)
Bệnh tật là một trong những nỗi khổ lớn của chúng sinh. Ai cũng đã từng trải qua đau ốm nên phần nào thấu hiểu sự khổ não của bệnh tật.
(Xem: 9652)
Sống ở đời, chỉ có thiện tâm mới có thể khiến người ta thay đổi, còn hận thù thì chỉ khiến lòng người ngày càng thêm xa cách mà thôi.
(Xem: 9993)
Hình chữ Vạn vốn là biểu tượng biểu thị tính chất tốt lành của dân tộc Ấn Độ cổ đại nói riêng và của cả chủng người Aryan nói chung.
(Xem: 16874)
Mấy tháng nay, Chú Pháp Đăng lúc nào cũng ngồi một mình trầm tư ngay gốc cây Sala ở phía trước chùa sau những thời kinh Tịnh Độ.
(Xem: 10381)
Thả tự do cho những người trong căn phòng tối tăm kia, cũng chính là thả tự do cho chính bản thân mình đấy! Oán hận người khác thực ra là đang cầm tù chính bản thân mình.
(Xem: 9606)
Xét về nghiệp quả nhân duyên giữa cha mẹ và con cái, nhà Phật cho rằng: Con cái đến với cha mẹ ở kiếp này là có 4 loại.
(Xem: 10968)
Đã làm người trong trời đất, ai cũng muốn công danh tột đỉnh, giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng.
(Xem: 21987)
Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, sự diễn biến từ nhân đến quả còn tùy thuộc vào các duyên, nhân quả có thể báo ứng liền tức khắc như ...
(Xem: 8571)
Kinh Thiện pháp (Trung A-hàm) có nêu lên bảy pháp mà bất kỳ một Tỳ-kheo nào thành tựu cũng có an lạc, đem đến lợi ích cho mọi người.
(Xem: 7966)
Tổng Thống Václv Havel mời Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhà tư tưởng thế giới đến Prague cho một hội nghị chuyên đề về giáo dụcgiá trị tâm linh.
(Xem: 7855)
Phật giáo là những phương pháp, những con đường để con người thực hiện hạnh phúc;
(Xem: 8786)
Bất cứ thứ gì chúng ta ngỡ là hạnh phúc thì thật ra lại là nguyên nhân gây ra khổ đau. Có thể điều này rất khó chấp nhận nhưng đây là một chân lý sâu xa.
(Xem: 15586)
Bố thícúng dường hay giúp đỡ sẻ chia là hạnh nguyện cao cả của các vị Bồ-tát, người Phật tử chân chính noi theo gương hạnh người xưa mà ...
(Xem: 9348)
Nếu hiểu rõ những khía cạnh tâm lý về các vấn đề của con người, bạn có thể phát huy tình thương đối với người khác.
(Xem: 8797)
Sợ hãi là một thuộc tính cố hữu của tâm lý con người. Chúng ta thường lo sợ về mọi thứ, từ cái...
(Xem: 8907)
Riêng tôi khi tiếp xúc trực tiếp với các tôn giáo tại Âu Mỹ ngày hôm nay thì xin đưa ra nhận định rằng: Mỗi tôn giáo đều giống như hương thơm của những loài hoa quý.
(Xem: 9293)
Năm tháng trôi qua như lớp bụi mờ phủ lên ký ức, hình ảnh mái chùa từ thuở mới xuất gia tưởng chừng như bị đắm chìm trong lớp bụi thời gian ấy.
(Xem: 9005)
Tâm Phật Ví Như Hoa Sen Hoa sen mọc chốn bùn nhơ, Nở hoa tươi thắm ngát thơm cuộc đời. Thân này nhơ nhớp vô thường, Có tâm thanh tịnh sáng soi muôn loài.
(Xem: 8550)
Dễ thay thấy lỗi người .Lỗi mình biết mới khó Lỗi người ta phanh tìm .Như tìm thóc trong gạo. Còn lỗi mình che đậy .Như kẻ gian giấu bài."
(Xem: 9840)
Học rằng cõi Phật chẳng đâu xa. Cõi Phật trong ta. Tâm ta mà thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh.
(Xem: 9805)
Thi thoảng trong đời chúng ta nên suy nghiệm về cái chết. Đúng ra, chúng ta nên nghiệm về nó hàng ngày.
(Xem: 8924)
Người nghèo tuy ít tiền bạc, đời sống khó khăn nhưng vẫn có tấm lòng rộng mở, lời nói hiền hòa, hành động cao thượng, dù sống trong cảnh nghèo mà vẫn thấy an vui, hạnh phúc
(Xem: 10686)
Để phát tâm bi đối với tất cả chúng sanh, chúng ta cần phải thấu hiểu mọi nỗi khổ của tất cả các loài chúng sanh trong luân hồi, và những nỗi khổ khác nhau của họ.
(Xem: 9410)
Những ngày Tết rộn ràng trôi qua thật nhanh; nhưng hoa xuân vẫn trên cành. Buổi sáng nơi vườn ríu rít tiếng chim.
(Xem: 9094)
Người làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp thức ăn, thực phẩm cho con người cũng phải biết tu.
(Xem: 9815)
Người biết tu trong lúc mua bán sẽ biết cách thu hút khách hàng, giữ mối quan hệ mua bán lâu dài, nên được nhiều người ưa thích.
(Xem: 11577)
Trong cuộc sống của chúng ta dù bất cứ hoàn cảnh nào, ta cũng phải biết cách tu nhân tích đức để ngày càng hoàn thiện chính mình.
(Xem: 11926)
Tôi được biết lạy Phật nên theo cách “ngũ thể đầu địa”, đại thể là hai chân, hai tay và đầu đụng mặt đất, tâm thanh tịnhtrang nghiêm.
(Xem: 9184)
Chúng tôi phải trông thật là thảm não khi được chào đón bởi những binh lính biên phòng Ấn Độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant