Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

40 Năm Tuổi Đạo Hương Thiền

19 Tháng Sáu 201717:09(Xem: 5621)
40 Năm Tuổi Đạo Hương Thiền

Trần Kiêm Đoàn

 40 NĂM TUỔI ĐẠO HƯƠNG THIỀN

Cảm niệm 40 năm xuất gia của thầy Thích Từ Lực tại Hoa Kỳ.

 

Xuất gia là một đại nguyện.

Giữ được Tâm trong không thối chuyển là một đại duyên.
 

Tại Việt Nam hôm nay, nếu lấy tròn số sẽ có 45.000 tu sĩ Phật giáo với dân số 100.000.000 người thì trung bình cứ 2.200 người mới có một người đi tu theo đạo Phật.

Tại Hoa Kỳ hôm nay, ước lượng có 1.200 tu sĩ Phật giáo trên tổng số 2.000.000 người Việt thì trung bình cứ 1.600 người có một tu sĩ Phật giáo.

Con số tự nó không đánh giá chân xác được tình trạng tôn giáo và chiều sâu hành đạo của các tu sĩ thuộc tôn giáo đó. Nhưng ít nhiều phản ánh được những nét tổng thể của mối quan hệ giữa quần chúng và tổ chức tôn giáo.

Mặc dầu theo truyền thống đạo giác ngộgiải thoát, phương tiện hành đạo thiện xảo của Phật giáohành giả chứ không phải là học giả; tuy nhiên trong quan hệ đời sống hiện thực, những bậc tăng tài tạo được ảnh hưởng tốt nhất cho đạo Phậtnhân sinh thường hành hoạt cả hai. Những thiền sư, tu sĩ tôn túc xưa nay thường là những bậc học giả, những nhà văn, nhà thơ có chân tài. Cũng thế, các vị Lạt ma Tây Tạng phải trải nghiệm và hoàn thành những chương trình Phật học tương đương với học vị tiến sĩ.

Với Phật giáo Việt Nam, một thuở vàng son thời Lý Trần chỉ còn là vang bóng, dư âm. Nhìn lại thời cận đại trong bối cảnh chiến tranh và phân hóa, hình ảnh đình chùa, miếu vũ và các nhà sư lặng lẽ gõ mõ tụng kinh; các ông sải bà vải lo hoa đèn, nhang khói hay quét lá sân chùa trong sinh hoạt Phật giáo suốt thời Pháp đô hộ không đại diện cho hình ảnh tu sĩ xuất gia, thiện giả làm công quả mà chỉ là những bóng mờ cúng bái, tán tụng lễ nghi. Trong khung cảnh đó, đạo Phật chỉ còn là một dòng tín ngưỡng hơn là tôn giáo vì thiếu vắng những sinh hoạt căn bản nhất để duy trì mạng mạch Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng. Mãi đến thập niên 1950, khi phong trào chấn hưng Phật giáo khởi phát và lan rộng trong cả nước, đạo Phật Việt Nam mới từng bước hồi sinh và công cuộc vận động Phật pháp, khuynh hướng đào tạo tăng tài trong nước và du học mới được thực hiện cụ thể.

Thập niên 1950 mới có tăng sĩ Việt Nam đầu tiên sang Mỹ du học là thầy Thích Quảng Liên, học ngành kinh tế tại Yale. Rồi tới 1962 mới có thầy Thích Nhất Hạnh học ở Princeton ngành Comparative Religion sau đó dạy ở Cornell. Cũng trong thời điểm nầy có thầy Thích Trí Siêu Thích Thuyền Ấn học ở Wisconsin, thầy Thích Thiên Ân từ Nhật được mời dạy ở đại học UCLA và lập Trung tâm Thiền viện Quốc tế (International Buddhist Meditation Center) ở Los Angeles. Rất nhiều tên tuổi của quý Thầy nổi bật với những luận án tiến sĩ có tầm cỡ khiến giới học thuật thế giới khen tặng và ngưỡng mộ.

Năm 1975 là một khúc quanh chuyển mình không chỉ đối với đất nước, dân tộc mà còn có tác dụng trực tiếp và sâu sắc đến tôn giáo. Đạo pháp và dân tộc không tách rời. Khi nói đến đạo Phật, đặc biệtđạo Phật Việt Nam hải ngoại, thì hai quốc gia nổi bật nhất là Pháp và Hoa Kỳ. Riêng tại Hoa Kỳ thì Phật giáo Nhật Bản, Trung Hoa, Tây Tạng… đã có mặt từ trước theo người di dân vào Hoa Kỳ. Lịch sử Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ được tính từ năm 1975, khi cuộc chiến chấm dứt, đạo Phật vào xứ này cùng với làn sóng người tỵ nạn di dân. Đâu có người Việt, ở đó có đời sống tâm linh thì ở đấy có tín ngưỡng thờ phụng tổ tiênđạo Phật.

Năm 2012 theo lịch Âm Dương Đối Chiếu của Minh Đăng Quang thì có 337 ngôi chùa Việt tại Mỹ. Gần nửa thế kỷ sau, tính đến năm 2017 thì tại Hoa Kỳ đã có trên 450 ngôi chùa, thiền viện, tự viện, niệm Phật đường và khỏang 1.500 tu sĩ Phật giáo Việt Nam thường cư hay thỉnh giảng.

Theo sự suy nghĩ bình thường và khái niệm thông thường nhất thì người Việt đi vào các nước phương Tây là để mưu tìm một cuộc sống mới, sung sướngthoải mái hơn ở quê nhà. Hiếm hoi lắm mới có người tìm ra nước ngoài để vào chùa hay nhà dòng mới đi tu theo lý tưởng tôn giáo của đời mình.

Cho đến nay, theo tài liệu tham khảotìm hiểu mà kẻ viết những dòng này có được trong tay thì người Việt Nam ở lứa tuổi thanh niên trong làn sóng người di dân tỵ nạn đầu tiên phát nguyện thành tu sĩ Phật giáo là một thanh niên 24 tuổi, xuất gia vào năm 1977 với bổn sư Thích Tịnh Từ tại niệm Phật đường Từ Quang, San Francisco. Đó là tu sĩ Thích Từ Lực.

Trong bài bút ký tự thuật 40 Năm Xuất Gia Học Đạo, thầy Thích Từ Lực ghi lại cảm xúc của mình: “Xuất gia, với tôi, là sự lựa chọn không băn khoăn. Tôi nhớ, khi đó, tâm trạng mình thật nhẹ nhàng. Hạnh nguyện vỏn vẹn chỉ là chọn con đường Đạo để tu thân, hành thiện, mục đích trước mắtbáo đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ…” Và, nhớ lại động cơ gieo duyên xuất gia buổi ban đầu, thầy Từ Lực chia sẻ: “Nhiều người thường hỏi lý do thúc đẩy tôi chọn con đường xuất gia nơi xứ người.Tìm kiếm câu trả lời trong chân thành, tôi chỉ có thể nhắc đến cảm giác bỗng nảy nở trong tâm hồn mình sau khi nghe lời kinh Phật giữa lúc nỗi lòng chưa hết bàng hoàng của kẻ bỗng thành người phiêu bạt nơi xứ lạ… Đó là khi ở trại tỵ nạn Fort Chaffee, tình cờ, tôi nghe giọng tụng kinh của Ôn Trí Quang trong một băng kinh ngắn. Ôn tụng bài tựa Lăng Nghiêm, nghi thức thời kinh sáng và một đoạn của phẩm Phổ Môn. Giọng Ôn trầm, ấm, đầy thiền vị, có một hấp lực lạ lùng làm tôi đắm mình, ngưỡng vọng.

Nói đến “Duyên” hay “Nghiệp”, cảm tính tự nhiênliên tưởng ngay đến một sự kiện vừa xảy ra hay vừa biến mất nhưng thực sự đó là cả một tập đại thành, là kết quả của một chuỗi dài hành trạng chi li nhiều đời, nhiều kiếp góp lại mà thành. Người xưa cho rằng: “Nhất ẩm,nhất trác giai do tiền định” (một hớp uống, một miếng ăn, hết thảy đều đã do định sẵn từ trước). Duyên tu hôm nay của Thầy Từ Lực cũng là do sự tổng hợp hạnh lành từ nhiều đời, nhiều kiếp mà thành. Tiếng kinh Ôn Trí Quang là một giọt nước sau cùng của ly nước tâm linh đã huân tập, tích tụ nhiều đời, nhiều kiếp suốt dòng sinh diệt của Thầy Từ Lực.

Trong suốt 40 năm qua, song hành với công hạnh tu học, Thầy Từ Lực đã đóng góp nhiều cho cho sự xây dựng chiều sâu và chiều cao của hình ảnh Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại qua nhiều sinh hoạt tu học, hành thiện với Phật tử đồng hương và bản xứ. Đặc biệtnỗ lực xây dựng “chiều dài” của đạo Phật qua những hoạt động văn hóa, xã hội, giáo dụctâm linh của tuổi trẻ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Những tu sĩ Phật giáo “trẻ” góp phần nâng cao tổ chức và tô bồi niềm tin, phẩm chất cho tuổi trẻ, đặc biệt là thanh niên Phật tử gốc Việt tại Hoa Kỳ có thể đếm trên đầu ngón tay trong suốt vài thập niên qua như: Quý Thầy Thích Hạnh Tuấn (viên tịch), Thích Đạo Quảng, Thích Từ Lực, Thích Viên Lý, Thích Huyền Việt, Thích Tịnh Mãn… với mối quan tâm chung là làm sao giải quyết tình trạng phân hóa hiện nay để xây dựng đạo Phật Việt Nam ở các nước ngoài thành một mối.

Trong khóa huấn luyện huynh trưởng cấp 3 – Huyền Trang – trong 5 ngày từ 13 đến 17- 4 - 2016 tại trung tâm Quảng Đức, thành phố San Bernadio, California, tiếng nói tha thiết nhất của mỗi thành viên và tất cả đại chúng vẫn là viễn ảnhmục tiêu của sự thống nhất đạo Phật Việt Nam tại hải ngoại. Kẻ đang viết những dòng này được duyên lành là một trong số năm thuyết trình viên toàn khóa (gồm quý thầy Nguyên Hạnh chùa Việt Nam, thầy Viên Lý chùa Điều Ngự, thầy Từ Lực chùa Phổ Từ và hai cựu liên đoàn trưởng GĐPT là Tâm Thường Định BXK và Nguyên Thọ TKĐ.)

Trong các cuộc pháp thoại và hội thảo, Thầy Từ Lực đã đưa ra quan điểm nghị luận mang tính khả thi và ứng dụng thực tiễn cùng những viễn kiến đầy thuyết phục liên quan tới khả năng giáo dục, đào tạo tuổi trẻ trong thực trạng còn nhiều khó khăn và giới hạn như hiện nay.

Kỷ niệm 40 năm một quá trình cảm Đạo, tìm Đạo, gặp Đạo, hiểu Đạo, tu Đạohọc Đạo của Thầy Từ Lực là nhìn lại và trân trọng một chặng đường dài hai phần đời không thối chuyển của một người có nhân cách lớn vì nghiêm cẩn với chính mình, giữ hạnh bồ đề trong sáng, phát tâm từ ái với người và thường hằng lấy chánh niệm làm trái tim của sự sống.

Xin trân quý chúc mừng 40 năm tuổi Đạo của Thượng tọa Thích Từ Lực với đôi dòng thơ tâm bút cảm niệm:
 

40 NĂM TUỔI ĐẠO HƯƠNG THIỀN
 

Ra đi tìm một chân trời mới

Mấy nẻo quê người mây cố hương

Vang vọng hồn xưa tình lữ thứ

Giọt suy tư nhỏ xuống canh trường
 

Ngày tháng phù du trôi qua mau

Thời gian như nước chảy qua cầu

Một đi bến cũ không về lại

Xuôi dòng viễn xứ biết về đâu
 

Hoa sen vẫn nở trong hương lửa

Nhân thế phù vân mãi đắm chìm

Về đâu ai biết về đâu nữa

Cuối bãi đầu non đã kiếm tìm
 

Duyên lành như đóa ưu đàm nở

Từ độ Lăng Nghiêm vẳng tiếng kinh

Vọng âm che mái đời phiêu bạt

Đêm tối vườn tâm tỏa ánh trăng
 

Quay về nương tựa ân vi diệu

Khai thị thiền sư mở cửa không

Đời bỗng vui lên từ vạn nẻo

Nghìn năm phước hạnh tự trong lòng
 

Hoa linh thoại mùa xuân có nở

Giữa trần gian rũ hết ưu phiền

Ơn tri ngộ đếm trong từng hơi thở

Bốn mươi năm tuổi đạo hương thiền
 

Kính chúc Thầy thân tâm an lạc, công hạnh tròn đầy.
 

Sacramento, trọng xuân 2017

Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn

Ý kiến bạn đọc
20 Tháng Sáu 201703:04
Khách
Mong sao cho đạo Phật ngày càng phát triển mạnh mẽ ở cả trong nước và nước ngoài. Ánh sáng chánh pháp đi tới đâu thì bóng tối vô minh mất đi tới đó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1335)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 753)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 846)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1138)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1296)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant