Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lên Non Xuống Núi Ung Dung - Ông Rùa Đá Ngộ

26 Tháng Sáu 201722:34(Xem: 6199)
Lên Non Xuống Núi Ung Dung - Ông Rùa Đá Ngộ
LÊN NON XUỐNG NÚI UNG DUNG – ÔNG RÙA ĐÁ NGỘ
tamthuongdinh
Sáng nay, trong không gian yên tĩnh, ngồi đọc thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, người có tên thân thương khác mà chúng tôi thường gọi là Ông Rùa Đá, ôi sao nhẹ nhàng và diệu vợi như tiếng chuông ngân. Một sáng mai, trong lành như Buổi Sáng của NHLD,
Trên hồ xanh
Con cá quẫy
Bỗng động đậy
Mặt trời hồng.
Trong cái động đậy đó chúng tôi chợt nhớ đến Cội Nguồn của anh, cũng như của tất cả chúng ta.
Mai đây khi trở về nguồn
Suối trong róc rách nước ngon môi mềm
Giữa rừng cây quế đứng im
Ta say giấc giữa tiếng chim gọi đàn.
À thì ra, anh cũng đã và đang gọi đàn, vậy mà bấy lâu nay chúng tôi cùng đồng hành với anh lúc nào không biết. Trong thơ anh, chúng tôi thấy những thao thức, khát khao, cay đắng, hy vọng, tin yêu và tình thương mà người luôn muốn được chia sẻ cùng nhau. Cũng như bao nhiêu người Việt ly hương, anh luôn nhớ về nguồn cội và tìm mọi cách để góp phần xây dựng quê hương, nhất là lãnh vực giáo dụcvăn học nghệ thuật. Anh còn là một trong những người sáng lập trang nhà Làng Huệ.
Tấm lòng cao thượng của anh là thế. Từ bitrí tuệ song toàn; bút lực sung mãn. Anh vẫn âm thầm cống hiến cho cho văn thơ Việt Nam nói riêng và cho nền giáo dục Viện Nam nói chung. Âu đó cũng là những Phẩm Vật của Trần Gian mà anh hằng ấp ủ trong cuộc đời mong manh và ngắn ngủi này. Hãy nghe anh gởi gấm những thông điệp yêu thương, hoài niệm, trầm uất, khát khao, bi hùng, chí lý, dõng dạc, hiên ngang, đầy nghĩa tình, đầy khí phách, có khi buồn man mác nhưng lạc quannhân bản – Bài thơ Trên Giòng Sông Trắng là một trong nhiều bài thơ bất hủ của anh mà chúng tôi luôn đồng cảm.
Trên Giòng Sông Trắng  
                    
Đã có lần nơi đầu nguồn im vắng
Anh làm thơ trên lá thả theo giòng.
Em giặt lụa tay thơm bờ sông trắng,
Bóng xuân hồng cúi xuống vớt thơ trăng.
Ôi cái thuở lòng anh thơm gió núi
Và tình em hương lúa chín trên đồng.
Chim chóc hót những ngày như mở hội.
Thơ chúng mình tinh-khiết tựa sương trong…
Rồi quê-hương đêm ngút trời khói lửa.
Viên đạn đồng tàn-nhẫn đã bay qua.
Em nhắm mắt.. Đường mình chia hai ngả.
Anh lang thang, mưa gió mãi không nhà.
Sau cuộc chiến tìm về nguồn lạnh vắng.
Thơ không làm, lấy lá thả đời trôi.
Nơi cuối giòng vẫn nắng vàng, sông trắng.
Không còn người âu-yếm vớt hồn tôi.
Anh là thế hệ đi trước, đã trải nghiệm biết bao nhiêu thăng trầmgian truân trong cuộc đời; anh đã sống qua thời Cải cách ruộng đất đến Chiến tranh Việt Nam. Từ Việt Nam ra hải ngoại, anh đã dọc ngang ngang dọc mọi thời khắp trời Đông Tây, cũng để rồi “tìm về nguồn lạnh vắng” để rồi anh ôm ấp Tình yêu thương rộng lớn của cõi đời hầu “ta giữ đến mai sau”.
Hay nói một cách khác, giữa sống và chết, giữa khỏe mạnh và ốm đau, giữa có và không, giữa còn và mất, anh vẫn giữ tấm tâm trong với thông điệp Yêu thương, Từ bi, Bác ái cho chính anh và cuộc đời. Âu đó cũng là chìa khóa cho một cuộc sống an bìnhhạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài. Hãy nghe nhà thơ tâm sự khi ngưỡng cửa thứ ba trong đời chào đón anh:
Giữa Cõi Đi Về
Trăng vẫn chiếu cuộc chơi từ cổ-độ,
Chợt vòng quay đảo lộn cả phương trời.
Nơi bãi vắng đóa hoa vừa nở rộ,
Thuyền ơi thuyền nước chẩy cứ trôi xuôi.
Cửa Trời Đất vô cùng đâu có hẹp.
Ta yêu nhau khi trăng thuộc về người.
Tới hay lui, lối đi nào cũng đẹp.
Ở hay về, đường vọng những lời chim.
Đây là chút yêu thương làm rượu ngọt,
Cho anh em chuếnh-choáng với mâm đời.
Rừng sương mộng, môi mềm ta cứ uống.
Giữa chợ chiều, tâm-thức nhớ an-vui.
Có tiếng hát mơ-hồ trên bến hẹn,
Tiễn chân nhau tới chốn ít ai tìm?
Cơn sóng lớn băng qua nguồn tắc-nghẽn.
Giòng máu nồng theo lối chẩy về tim.
Hỡi chăn gối đã đưa ta trở lại,
Tạ ơn nhiều êm-ái lúc thân đau.
Hỡi viên thuốc trên đầu môi tê-dại.
Dư-vị này ta giữ đến mai sau.
Anh vẫn lạc quan, yêu đời và biết ơn với cuộc sống. Âm điệu, thi ảnh, mầu sắc, và tư tưởng đều có đầy đủ trong bất cứ một bài thơ hay nào, mà anh thì có quá nhiều bài thơ tương tự để liệt kê nơi đây. Mà thơ nói chung, theo luận điểm 29 trong Mỹ Học của Geghen mà Phan Ngọc dịch, là "ngôn ngữthực tại trực tiếp của tinh thần, cho nên thơ bao quát được đối tượng, mọi đề tài, "mọi nội dung, mọi sự vật, mọi biến cố, hành động, lịch sử, trạng thái bên ngoài hay bên trong. Nó lại thể hiện đối tượng trong sự vận động (điều mà điêu khắc, kiến trúc, hội hoạ không thể làm được). Đồng thời, thơ lại có thể dịch ra một ngôn ngữ khác mà vẫn không bỏ mất giá trị khi đọc hay xem bản dịch. Mỗi nghệ thuật điều có cái thời cực thịnh của mình..."
Những trang thơ của Nguyễn Hoàng Lãng Du đăng trên Làng Huệ là ‘thời cực thịnh’ của anh. Tư tưởng Mang Tình Yêu Thương Lớn (Bác Ái) của Thiên Chúa giáo hay Tứ Vô Lượng Tâm của Phật giáo đem vào cuộc đời để thắp sáng ngọn lửa tin yêu, hy vọng, an bìnhgiải thoát. Nhà thơ đi và về giữa cuộc đời với bao phong trần, khổ lụy mà không hề bám víu, hối tiếc hay khóc thương, xem lợi danh như bọt biển mây chiều.
Đây chén đắng, môi sầu ta mãi nếm.
Em xót-xa nên nước mắt lưng tròng.
Canh bạc đời một lần thôi đã kém.
Mỉm miệng cười, đứng dậy thấy tay không (Bến Nhớ).
Để rồi nhà thơ thong dong phủi tay lên núi Tiên tu đạo làm người.
Trên Núi Cao
1
Trên núi cao bỗng có cơn gió lớn
Cuốn hồn ta thành một kẻ trọc đầu.
Gã lang-thang nơi cuối trời mây trắng,
Chốn quê nghèo thoang-thoảng chút hương cau.
2
Ở nơi đó có mùa  trăng cổ-tích,
Mẹ hàng ngày quang gánh nặng yêu thương.
Cha ngạo-nghễ nên vui đời áo rách,
Thua-thiệt gì vẫn giữ cái tâm trong
3
Ở nơi đó có người em bé nhỏ,
Trái cam vàng em nhịn đợi chờ anh.
Chiều ly-biệt chao ơi tha-thiết quá!
Em ôm anh khóc ngất lúc xuân tàn.
4
Ở nơi đó có người tình thuở cũ,
Vỡ lòng yêu khi đi học chung trường.
Có ngờ đâu giòng đời như thác lũ,
Ngọn tre già nặng chĩu những tang-thương.
5
Ở nơi đó có căn nhà mái dột
Mẹ thở dài đêm trắng đợi mưa qua…
Trên núi cao đầy hoa thơm ngào-ngạt.
Con tu tiên quên cả chuyện quê nhà!
Anh lên núi buông bỏ tất cả những bụi bặm trần thế, thua-thiệt làm gì cho đời mãi long đong. Nên anh vẫn giữ cái tâm trong, mà trong cái tâm trong đó, dù kiếp này hay kiếp sau, anh cũng vẫn nhớ “chuyện quê nhà!” và anh đã thấy rằng:
“...Hôm nay trên đời
Anh em cơ-cực.
Ta ôm mặt khóc
Thân-phận làm người.”  (Kiếp Sau)
Ngộ ra đây là thân phận làm người Việt Nam, một dân tộc anh hùng nhưng đã ngàn năm thăng trầmtrầm luân đau khổ. Nhưng cũng bao nhiều thế hệ trước, anh vẫn lạc quan và nguyện cùng đồng hành cùng với tuổi trẻ, với dân tộc, anh vẫn “Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh. Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.” Chúng ta có thể hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du qua loạt bài Chủ đề Tiếng Gọi Núi Sông, Giáo dục Thiếu nhi, Tranh-Thơ-Nhạc, hay chỉ riêng bài Gọi Dậy Ngàn Năm mà Giáo sư Nguyễn Văn Thái dịch ra tiếng Anh dưới đây.
Gọi Dậy Ngàn Năm
1
Rồi gã mù ôm mùa đông thức dậy.
Tiếng độc-huyền vang động tới ngàn năm.
Ngày Quê-Hương có gió xuân thổi lại.
Đêm linh-thiêng thơm ngát với hương trầm.
2
Đàn reo vui theo tiếng cười Uy-Viễn.
Thuở tiêu-dao ngất-ngưởng cưỡi lưng bò.
Đây núi sông,Tướng-Quân đùa với chén.
Bụi-bặm đời trôi-nổi dưới chân co.
3
Đàn giục-giã, trống đồng khi thúc trận.
Trên lưng voi thân gái trả thù nhà.
Muôn tiếng thét, quân reo tràn uất-hận.
Một cõi bờ dựng lại mặc phong-ba.
4
Đàn hào-hùng, điện Diên-Hồng sấm động.
Những cha già tóc trắng sát bên nhau.
Lời quyết-chiến tung bay theo gió lộng.
Người lên đường hăm-hở bước chân mau.
5
Đàn hiền-hòa, Đế-Vương khi mở nghiệp.
Núi La-Sơn thành-khẩn những ba lần.
Đây Quân-Đức, Dân-Tâm và Học-Pháp.
Thanh-âm này chĩu nặng ý Giang-San.
6
Đàn xót-thương, tiếng bom vang Sa-Điện.
Một ngày buồn, bão-tố ngập Quê-Hương.
Tráng-Sĩ đi một lần không để thẹn.
Rồi người người đứng dậy quyết noi gương.
7
Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh.
Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.
Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh.
Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.
Awakening from Millennia
1
The blind bard from winter awakes.
The sound of his monochord resonates from millennia:
The day when Motherland enjoyed the breezes of Spring
And the sacred night was embalmed with frankincense.
2
The monochord is cheering along with Uy Vien’s laughter;
In a leisurely manner, he wanders here and there riding a cow,
Frolicking with a flask of rice wine in peaceful Fatherland,
Scorning all ephemeral matters that pass under his feet.
3
Its sound is hurrying, when the brass drums press for the battle.
On elephants’ backs the heroines seek revenge:
Through thousands of war cries, soldiers’ outrage clamors
For the rebuilding of the nation in spite of adversities.
4
The sound is becoming daring, when the Dien Hong Palace thunders,
By the gray-haired patriarchs shoulder to shoulder,
With the roar of the war cries ballooning the immense winds
That push people to eagerly accelerate the speed of their steps.
5
The sound is currently gentle: Forefather of our kingdom, Our Emperor
Has thrice sought advice from the Sage of Mount La-Son.
Here you are, “Virtues of a King, Hearts of the People, Practical Education.”
This tune is laden with multiple meanings of nationalism.
6
The sound now turns elegiac, when the bomb detonates in Sa Mian:
A sad day when the storms ravage Fatherland;
The hero once passed didn’t leave shame behind.
And people one after another rise up following his footsteps.
7
My eyes are blind, but I enjoy my loneliness:
I’m pouring love down onto the monochord,
Living the dream of a torch that lightens up the freezing cold night.
Embracing history, waiting for Spring to come again, in the cherry blossom tree garden.
 
Poem by Nguyễn Hoàng Lãng Du; English translation by Nguyen Van Thai
Notes: 2. Nguyễn Công Trứ; 3. Hai Bà Trưng; 5. Quang Trung và Nguyễn Thiếp; 6. Phạm Hồng Thái
Nhà thơ khiêm cung lắm, trí tuệ đó, cái oai hùng đó, mà anh bảo rằng, “Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh” nhưng để rồi anh lại “Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.” Mà thiệt những người như anh, những người âm thầm làm văn hóagiáo dục nhân bản là những kẻ bơi ngược dòng, cô quạnh và đơn côi. Có lần Vũ hoàng Chương cũng nói về tâm trạng đó--thân phận làm người Việt Nam.
“Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.”
Cảm nhận như vậy để thấy và biết rằng mọi sự trên đời đều qua những gian đoạn thành trụ hoại không. Cuộc đời chúng ta cũng thế, vốn là vô thường, có rồi không, còn rồi mất, lúc có lúc không. Nhưng bên cạnh nhà thơ luôn có những gã đồng hành; vậy thì hãy giữ lại những kỷ niệm đẹp như trong Cõi An Bình.
“Em giữ hộ mùa đông dăm giọt nắng,
Câu ngọt-ngào xót lại tự xa-xưa.
Hồn cổ-thụ, hoa sầu đơm trái đắng,
Thân trăm năm bụi-bặm thấy dư-thừa...”
Những cảm giác bùi ngùi, khắc khoải, thế thái nhân tình cũng chỉ là những hạt bụi dư thừa mà thôi. Vậy nhé,
Mai ta lên rừng
Làm con chim nhỏ.
Lá thơm, trái đỏ
Thỏa chút rong chơi.
Mai ta xuống đồi
Làm con cá lội.
Vài hàng đá cuội
Tung tăng một giòng.
Mai ta về đồng
Làm giây cỏ lạ.
Hoa vàng nắng hạ
Uống giọt sương trong...(Kiếp Sau)
Nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du đó, một đời lên non xuống núi, để rồi cũng ngộ rằng anh cũng chỉ là Hạt bụi bay giữa trời. Anh viết,
Thoáng nghe hạt bụi giữa trời,
Bay trong nắng hạ gọi người lãng-du.
Em về rủ gã chân tu,
Leo lên núi biếc đường mù khói sương.
 
Vậy chân tu hãy cùng em hiểu bài kệ ngài Như Trừng như là một sự thực tập nhé, “Bản tùng vô bản. Tùng vô vi lai. Hoàn tùng vô vi khứ. Ngã bản vô lai khứ. Tử sinh hà tằng lụy.” Tạm dịch “Tất cả các Cội nguồn / Gốc rễ bắt nguồn từ nơi không gốc rễ. Mọi sự từ vô vi đến và lại trở về với vô vi. Chúng cũng không đến không đi, thì tử sinh làm sao hệ lụy được.” Bải kệ này được cụ Võ Đình dịch ra tiếng Anh như sau:
The source begins from no source
It comes from nothingness
And it goes back to nothingness
We neither come nor go
Life and death are then of no concern.
Sacramento, đầu hè 2017
Mừng anh về thăm California.
Bạch Xuân Phẻ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1991)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1674)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1661)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1846)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1854)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1520)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1686)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2021)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1774)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2336)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1667)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1668)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1625)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2077)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1904)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2041)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1589)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2193)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1555)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1820)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1703)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1772)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1614)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2360)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2069)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2024)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1834)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2172)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1744)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1860)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2089)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1625)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1887)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1872)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2098)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1864)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1717)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1692)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1704)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1814)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2112)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1670)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1640)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2197)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1910)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1722)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2289)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1902)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2002)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2189)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant