Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lành Thay Nếu Được Là Học Trò Của Đức Phật

10 Tháng Bảy 201705:00(Xem: 7285)
Lành Thay Nếu Được Là Học Trò Của Đức Phật
LÀNH THAY NẾU ĐƯỢC LÀ HỌC TRÒ CỦA ĐỨC PHẬT

Nhụy Nguyên


Lành Thay Nếu Được Là Học Trò Của Đức Phật


Giả nhưmột lần úp mặt vào lòng bàn tay suy ngẫm, ta sẽ thấy con người ngay từ lúc thoát thai đã chịu bất công: người rạng ngời tướng tốt ủ yên trong gấm vóc lụa là, kẻ đui què câm điếc lại còn sinh trong gia đình bần tiện. Xét ngang đây (tức cái nhìn trong một đời) thì bất cứ nỗi oan khuất đến với cá nhân trưởng thành nào trên quả địa cầu đều không đáng gì. Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứvị lai được Đức Phật giải thích cặn kẽ.

Nếu bảo con người sống trên trái đất, là chưa đúng. Trái đất cũng chỉ là một hành tinh lơ lửng giữa trời, nên con người cũng đang trụ giữa hư không - mới đúng. Con người thực chất đang lơ lửng giữa trời. Nghĩa là con người ở trên trời, chứ không phải dưới đất để rồi bảo trời cao xa quá. Trên 28 tầng trời là cõi Phật. Trời, dĩ nhiên cao xa khôn lường. Nhưng chân tâm mỗi người vốn trọn đủ tam thiên đại thiên thế giới. Tâm càng sáng, bí mật “tối tăm” của vũ trụ càng hiển lộ quang minh. Con người là một cá thể riêng biệt - lý thuyết này khoa học hiện tại đã cười nhạo rồi. Mỗi cá thể nhỏ bé đến mấy cũng có mối liên hệ mật thiết với vũ trụ bao la. Vạn vật đồng nhất thể. Học giả James Gleick có nhận định rất triết lý qua hình ảnh: “Một cái đập cánh của con bướm hôm nay ở Bắc Kinh sẽ tạo ra trong không khí các cuộn xoáy có thể biến thành bão tố trong tháng sau tại New York”. Ngày xưa bão giật cấp 12, 13 đã ghê gớm lắm. “Siêu bão”, danh từ gọi những cơn bão có mức giật từ khoảng cấp 14 trở lên, mới chỉ xuất hiện thời gian gần đây. Cấp giật của những cơn bão tăng lên, động đất nâng độ dư chấn, sóng thần dữ dội, là sự gia tăng của niệm lực xấu ác từ chúng sanh ở nhiều cảnh giới khác nhau. Sự chống đương nhiên có lợi, chỉ là lợi bất cập hại. Các vị cao tăng đại đức lúc giảng kinh thuyết pháp nhiều lúc cũng “nặng nhẹ” với chúng sinh; kẻ trí tự cao nghe qua hẳn sẽ gán đấy cũng là sự chống hồng trần tươi đẹp. Đâu hay lời ấy phát từ gương tâm trong suốt không mảy bụi trần. Còn “chống” bằng hành động nô lệ của ý niệm xấu từ lượng tâm ích kỷ nhỏ mọn, sẽ khiến thời-không thêm nhiễu loạn. Sự chống ấy cũng như luồng khí nóng tưởng sẽ làm cơn bão đang tiến vào suy yếu chẳng ngờ càng góp sức cho bão.

Ân sư của tôi dạy, kinh điển là tấm gương để chúng ta soi tâm hàng ngày. Con người tin sâu kinh điển gắng công tu tập sẽ nhận ra quy luật tự nhiên vi diệu. Kinh xét cho cùng đều lưu xuất từ tự tánh. Nếu kinh điển tam sao thất bổn, các vị chứng đạo đắc quả đã lên tiếng. Hoài nghi lời Phật chẳng khác tự ta dập tắt ngọn đuốc trên con đường dẫn về Niết-bàn giữa đêm trường tăm tối. Lành thay khi tôi gặp được Đức Phật. Tôi tin Đức Phật như tin ông bà cố mình trên bàn thờ (chưa một lần gặp mặt); họ truyền ngôn lại cho cha mẹ và giờ đây tôi tin hết thảy những di giáo đó. “Phật” là một từ trong vô số ngôn ngữ; cũng không hẳn là một cái tên. Khi ai đó nhìn thấu triệt về chân tướng vũ trụ nhân sinh, hậu thế phải tìm danh từ bao hàm nghĩa đó, nên chọn Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (Phật). Ngày xưa nhà thắp đèn dầu, chỉ soi sáng những trang sách tôi căng mắt đọc. Khi điện kéo về làng, tôi nghĩ đó đã là ánh sáng siêu việt. Nhưng có lần mẹ tôi kể, thời xưa máy bay Mỹ thả những quả pháo sáng, cả xóm hiện ra như ban ngày, đến cái kim trong nhà cũng thấy. Tôi cũng chỉ lờ mờ tin. Được tiếp cận kinh điển, tôi nhớ lời mẹ, cảm nhận bước đầu về Vô lượng quang thường hằng chiếu rọi khắp các cõi. Bởi phiền não nghiệp chướng sâu dày nên chưa thể tiếp nhập hào quang Như Lai, nhưng tôi tin chắc điều đó - nó sẵn trong tâm mình như viên minh châu (bị bọc trong bùn nhơ đen đặc).

Học Phật không phải đọc hiểu bằng trí mà cần trải nghiệm. Trừ những vị Phật hay Bồ-tát trở lại cõi này “biểu diễn” hóa độ chúng sanh, còn tất thảy người tu, chưa ai đọc hết sách Phật trên địa cầu mà đại ngộ bao giờ. Mức thấp nhất để hiểu Phật cũng phải cậy vào công phu chứ hoàn toàn không nương vào trí dẫu đó là một bộ óc siêu thường. Mỗi sinh mệnh chào đời đã bị ấm nghiệp lập trình sẵn tương lai. Muốn rẽ về miền sáng, điều trước tiên phải hạ thủ hành trì phá ngũ uẩn. Đào sâu vào kiến hay tư hoặc, mới hay chẳng những ta mê sắc ấm là mình; sắc ấy còn nối dài sự chấp trước bởi thọ ấm; rồi thọ làm nền cho tưởng như mặt biển ngỡ lặng sóng bình yên mà phía dưới lòng sâu cuồn cuộn dòng hải lưu nghiệp thức của hành và thức ấm, cuốn ta quay mãi hoài trong luân hồi khổ não. Không cứ tu theo pháp môn nào, hễ người có công phu chí ít cũng phá lớp sóng thô vọng tưởng chấp trước, phá một phần sắc thọ và “tạm dừng” tưởng ấm. Có một điều ngỡ một song hoàn toàn khác biệt, đó là: thay vì diệt vọng tưởng, chỉ nên chú tâm vào câu Phật hiệu. Diệt vọng tưởngảo tưởng, còn chú tâm vào Phật hiệu tự khắc vọng tưởng sẽ héo. Hành giả thuộc Tịnh tông chuyên niệm Phật, đến giai đoạn hễ ý niệm, hình ảnh nào trồi lên ngay lập tức câu “A-di-đà Phật” từng chuỗi mạnh mẽ vang lên dứt khoát, tưởng ấm do vậy sẽ hoạt động một cách yếu ớt. Cũng xem như câu Phật hiệu được gắn sẵn trong tâm, tự nó vận hành mạnh mẽ.

Người ta vẫn thắc mắc: ngày nay phi thuyền đã bay thấu trời xanh vẫn không thấy cõi Cực lạc ở đâu. Thực tế, chúng ta nhìn mặt trăng mặt trời to bằng quả bóng thì ngược lại, ở mặt trăng trái đất cũng nhỏ như vậy. Nếu phi thuyền bay ra ngoài không gian thì trái đất chưa lớn bằng một hạt bụi. Con cá ở đại dương mênh mông, dĩ nhiên nó sẽ phán chuyện con người chỉ thở bằng không khí là hoang đường. Cũng như nhiều người khó thể tin cùng không gian ở trái đất, lại “dung chứa” vô vàn cảnh giới khác nhau; các cảnh giới đan lồng, chồng lên nhau song cảnh giới này không phương hại cảnh giới khác. Cũng như trong ti-vi bật kênh này là đại dương dội sóng, kênh khác lại đang phát cảnh núi lửa phun trào, và hàng trăm cảnh giới khác cùng tồn tại (trong “cái hộp” ấy) mà ti-vi vẫn như như bất động. Khoa học phát hiện không gian đa chiều, dẫu sao vẫn mang tính lý thuyết, chưa thể thâm nhập. Tu đạt tâm tuyệt tĩnh, chính người đó câu thông với vũ trụ, thấy, biết và có thể sống ở bất cứ không gian nào.

Hiện bày chân tướng của vũ trụ, Phật pháp không hạn hẹp trong kinh điển, trong chùa chiền và trong bản thân các vị chân tu. Hễ điều gì tương ưng với chân tướng vũ trụ ấy thì đó chính là Phật pháp (dẫu toàn thể bản chất của nó không hẳn là Chánh pháp). Đạo Phật bao hàm hầu hết kiến trúc thượng tầng của xã hội loài người. Từ đạo đức, mỹ học, kiến trúc, văn học, tâm lý học, triết học, khoa học, nhân tướng học, y học v.v. Hiện giờ khoa học lượng tử đã giải mã được những bí mật tự nhiên, còn khiêm tốn song cơ bản có thể sửa đổi “giáo trình” triết thuyết về vũ trụ nhân sinh. Thật ngạc nhiên ấy là những điều Phật đã thuyết giảng. Vậy xem như đỉnh cao của khoa học hiện đại vẫn tụt hậu gần ba ngàn năm; nếu không muốn nói là tụt hậu vĩnh viễn, bởi khoa học (chỉ dụng Trí nên) không thể “chứng quả” - thấu triệt về vũ trụ.

* * *

Không ai có đôi mắt sáng lại nhắm mắt mà đi, tuy nhiên mắt sáng cũng không thể nhìn thấu kiếp mình nếu tâm thức mù lòa. Cõi Cực lạc xa vạn ức trình thăm thẳm, lại có ở ngay trong chính mỗi cá thể một khi tin nhận và hành đúng lời Phật dạy hiển lộ tự tánh. Không ngọn đèn nào soi tỏ vùng bí mật dưới chân nó; không lý gì ta cứ phải nhìn thấu gầm trời mới bước đi. Học Phật là học định tâm phát tuệ, nên thậm chí có thể nhắm mắt bịt tai mà hành. “Bịt tai” để nghe diệu âm Như Lai trong vũ trụ, và “nhắm mắt” để thấy hào quang Đức Phật rọi vào nơi tối-tăm-vi-diệu nhất của đời mình.

Có một nỗi day dứt khôn nguôi: tại sao Đức Phật dang tay đón tôi? Một người si mê bao nỗi, từng đi ngược lại ý hướng thuần thiện nhân bản, cũng từng hành theo tà đạo lại tưởng là pháp tối thượng. Nhân duyên gặp được pháp Đức Phật mới hay, Ngài không bỏ một ai, luôn chắt chiu từng cơ hội nhỏ hướng tha nhân về miền sáng tinh khôi của sự an lạc. Hẳn đây là câu nói quan trọng nhất của Đức Phật: “Tất cả chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng Như Lai, do vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”.

Thông điệp này vượt lên tất cả mọi giáo lý tâm linh. Một khi (vốn dĩ) có Phật tánh, bất cứ ai lâm vào ngõ cụt, lâm vào hố thẳm cũng đều có cơ may nhìn thấy ánh sáng của sự giải thoát. Ý nghĩ này vụt hiện, điều ngáng trở ta thành đạo là: vọng tưởngchấp trước. Ở đây xin đề cập đến vọng tưởng, bởi hễ vọng tưởng ít đi, chấp trước sẽ tự giảm bớt, dẫu rằng vọng tưởngchấp trước đang bàn chỉ ở dạng thô phù và chưa phải hướng đến pháp nhất chân. Trên lý nhất tâm trong Tịnh độ, vọng tưởng có thể được định nghĩa: khi ta trụ lại ở câu hồng danh “A-di-đà Phật”, thì mọi ý nghĩ hình ảnh chạy qua đầu đều là vọng tưởng. Ai từng hành thiền hay niệm Phật mới thấu, để quét sạch vọng tưởng, gần như là… vô vọng. Thế nên, thay vì điều phục, diệt trừ, đè nén vọng tưởng, hành giả chỉ việc chú tâm vào câu Phật hiệu. Công phu tối thiểu là tâm tự khởi câu hồng danh vào bất cứ lúc nào đầu óc không suy nghĩ công việc, sau đó thì niệm thành chuỗi 5 câu, 10 câu để kết thành phiến, thành khối. Phật hiệu được nuôi lớn khỏe mạnh, vọng tưởng sẽ héo tàn một cách tự nhiên như cỏ dại bị rút kiệt nguồn sống. Buông vọng tưởng chấp trước như ta vô tình làm rơi vỡ một viên ngọc quý giá vô ngần mà tâm không móng khởi luyến tiếc. Vọng tưởng ít chân tâm càng hiển lộ. Chân tâm chưa tỏa rạng quang minh, vạn sự vạn vật ở trong và ngoài thân đều huyễn ảo mịt mờ.

Bản thân thật quá xấu hổ khi đứng trước Đức Phật. Hiểu Phật, tôi không hề cầu mong bất cứ điều gì. Lạy Phật, niệm Phật cũng không hề có ý nghĩ cầu cho mình sức khỏe sống lâu, không nhờ đó mà cầu danh vị tiền tài. Nó ngược với chân tâm, ngược với bổn hoài ba đời chư Phật. Kinh điển khai tâm mở não cho tôi thấy trên đời hết thảy chỉ là một giấc mộng lớn, đều hoại diệt bất cứ lúc nào kể cả xác thân bất tịnh. Một khi nhận ra trong tôi có Phật tánh (bình đẳng như mọi người), cũng là lúc tôi biết, đối trước tất cả chúng sanh ở cõi Nam Diêm-phù-đề, tôi đều phải cung kính như đối diện với Phật. Do thói quen huân tập lâu ngày trở thành “bản chất”, đâu ngờ bổn tánh ở mỗi chúng sanh vẫn không hề nhuốm bụi trần ai. Đó sao có thể gọi là kẻ xấu ác cho được. Người cha dẫu suốt đời phương hại chúng sanh thì trong sâu thẳm đứa con ông ta vẫn là người nặng nghĩa ơn sâu. Càng cảm thương đối với những người tạo ác nghiệp. Họ đã chịu thiệt thòi đóng vai phản diện. Cuộc đời là một vở tuồng kinh điển. Xem tuồng, không lý tôi lại thù hận diễn viên trong vai kẻ “sát nhân”…

Ba tôi, một người hiền lành nhân hậu, suốt đời dạy dỗ bao thế hệ học trò thành đạt, lại phải nằm rất lâu trước lúc từ giã cõi đời. Tôi nghĩ nếu để chịu đựng một ngày lâm bệnh của ba thôi cũng khó. Nhưng ba đã đổi lấy sự đau đớn tột cùng, đổi lấy thọ mạng ngắn ngủi để dạy bài học vô thường vĩnh viễn, để tôi biết mau chóng quay về nẻo thiện. Vai diễn của ba quá đạt, khiến tôi cảm sâu hơn về lời dạy của Phật, khiến tôi hiểu ai cũng nên gắng tu như lửa cháy trên đầu, như ma đuổi sau lưng và phía trước là hố thẳm.

Đức Phật từng hàng ngàn lần âm thầm trở lại cõi ta-bà trong vai những chúng sanh lạc lối, tỉnh ngộgiác ngộ. Và mãi mãi về sau Ngài vẫn không mệt mỏi sắm vai trên sân khấu ác trược buông xuống vạn duyên thẳng về bờ giác để mong một ngày ai đó sẽ lần theo những dấu chân ấy ra khỏi nguồn mê.

Thật tự hào nếu được là học trò của Phật Thích-ca, một vị Thầy thấu tỏ, siêu việt mười pháp giới, đã thiết nguyện khuyến nhủ muôn người hướng về Cực lạc thế giới. Nghẹn ngào thay khi xưng tụng hồng danh Đức Từ Phụ. Tên của Ngài chính là căn mạng đời tôi. Thật tự hào nếu mỗi ngày mở mắt lại được niệm “A-di-đà Phật”. Tha thiết niệm. Niệm đến ứa nước mắt kiệt cùng huyết máu. Chính lúc đó tôi không cô đơn buồn tủi, không chạy trốn khỏi chiều thời gian hạn hữu kiếp người.

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo năm 2017 | Số 276 ngày 1-7-2017
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1327)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1220)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1284)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1298)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1318)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1333)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1209)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1452)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1295)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1196)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1160)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1202)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1210)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1333)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1060)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1053)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1122)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1252)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1277)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1043)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1163)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1101)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1236)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1231)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1362)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1439)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1201)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1191)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1334)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1357)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1282)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1583)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1255)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1271)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1297)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1151)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1182)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1293)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1410)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1474)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1631)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1488)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1409)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1177)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1284)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1254)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1317)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1285)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant