Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi Vào Đời Ác Năm Trược

12 Tháng Bảy 201705:03(Xem: 9077)
Đi Vào Đời Ác Năm Trược

ĐI VÀO ĐỜI ÁC NĂM TRƯỢC

Nguyễn Thế Đăng


hoa sen

Xã hội là sự hiện hành, sự biểu hiện của tâm, tâm sở chúng sanh với rất nhiều tạp nhiễm phiền não của con người. Để đi vào cuộc đời, đi vào tâm tưởng tạp nhiễm phiền não của người khác hầu giải thoát cho họ, Bồ- tát phải mặc mũ giáp của trí huệ tánh Khôngđại bi vô ngại: “Các Đại Bồ-tát mặc đại mũ giáp có thể khắp tùy nhập trong hành động của tâm và tâm sở của tất cả chúng sanh, có thể khắp tịnh hóa các tạp nhiễm phiền não của tất cả chúng sanh. Các ngài ngồi Đại thừa để làm lớn các thiện căn cho tất cả chúng sanh”.

Mặc mũ giáp tánh Khôngđại bi, Bồ-tát thấy tánh Không của sắc, của các căn và thức, do đó không bị lây nhiễm tạp nhiễmphiền não của chúng sanh. Căn, trần và thức là sanh tử, thế nên thấy tánh Không của chúng là thấy không có sanh tử. Thấy tánh Không mà thấy không có sanh tử nên sanh tử không thể làm nhiễm ô.

“Lúc an trụ trong đạo ấy, Đại Bồ-tát được ánh sáng pháp. Do ánh sáng ấy nên thấy được tự tánh duyên khởi của tất cả pháp vốn Không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi.

Ở trong sắc mà chẳng thấy có sắc, ở trong thọ tưởng hành thức mà chẳng thấy có thọ tưởng hành thức. Ở trong thức mà chẳng thấy có thức khác với duyên khởi của thức. Biết rõ tướng của thức tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi, chỉ thuộc các duyên hòa hiệp, các duyên cũng là Không, là vô tướng, là vô khởi”.

Thấy sắc thọ tưởng hành thức của mình và của người là Không, vô tướng, vô khởi tức là thấy không có phiền não, không có sanh tử. Bồ-tát ở nơi sanh tử, ở với chúng sanh phiền não mà không thấy có sanh tử, không thấy có chúng sanh phiền não vì là “Không, là vô tướng, là vô khởi”, nghĩa là như huyễn. Đây là việc làm của Bồ-tát trong tánh Không, cho nên khi làm việc tự giác, giác tha, vị ấy giải thoát ngay trong công việc.

Cho đến thế giới bên ngoài, Bồ-tát thấy thế giới, quang cảnhnhân duyên sanh nên là tánh Không, và do đó giải thoát khỏi sự sanh trụ dị diệt của thế giới: “Cho đến địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, Dục giới, Sắc giớiVô sắc giới, đều không có tác giả, không có thọ giả. Chẳng ở chút pháp nào mà thấy có chút pháp khác với duyên mà sanh khởi. Các pháp đều thuộc nhân duyên, tự tánh các pháp không có tướng, không có khởi. Tự tánh của nhân duyên cũng là Không, là vô tướng, là vô khởi”.

Thế nên “các Đại Bồ-tát ngồi Đại thừa này dầu thọ lãnh sanh tử (thế giới, chúng sanh) nhưng ở đâu cũng chẳng bị ô nhiễm mà có thể thấy được lỗi lầm để có thể lìa khỏi”.

Thật sự thấy các pháp là Không, là vô tướng, là vô khởi tức là vô sanh pháp nhẫn; tất cả tướng và tưởng đều tịch diệt: “Các Đại Bồ-tát dùng pháp hành này để nắm giữ đạo mới được gọi là tùy thuận đạo, vì quán tất cả pháp tánh vốn Không, vì không tên, vì không tướng, vì không nguyện, vì không sanh, vì không tác. Lúc được ánh sáng pháp, quán thấy sự sanh dứt hết thì chẳng ở trong vô sanh mà khởi tưởng sanh. Liền ngay lúc ấy siêu thoát, lìa sự sanh, ra khỏi phi pháp mà được đạo thanh tịnhvô sanh pháp nhẫn. Vì đạo thanh tịnh nên vượt quá tất cả tưởng, chẳng còn trụ phi tưởng, tịch diệt cả đạo tưởng, lìa khỏi pháp tưởng, ra khỏi lưới vô minh. Dùng minh tu tập, những pháp đáng được đều có thể được cả”.

Tương ưng và an trụ tánh Không, Bồ-tát vô ngại đối với chúng sanhthế giới: “Các Đại Bồ-tát lúc hành đạo này chẳng trụ nơi xứ, chẳng bị tướng làm hại, biết tất cả pháp đồng với hư không, sanh như hư không sanh, tánh như tánh Không, không có chút tướng nào chướng ngại”.

Khi trọn vẹn sống trong tánh Không, các pháp không còn biên giới mà mở trống, không có biên giới; các pháp vốn tự giải thoát: “Do ánh sáng đại pháp nên thấy tất cả pháp đều không có biên bờ”.

Chính vì được an toàn trong sanh tử, tức là trong những tạp nhiễm phiền não của chúng sanh như vậy, với đại bi, Bồ-tát có thể gánh vác lấy gánh nặng chúng sanh:

“Này Vô Biên Huệ! Ông đã nhiếp thủ vô lượng thiện căn, ở đời mạt thế sau này, ông sẽ dùng pháp ấy để nhiếp lấy chúng sanh. Ông sẽ vì chúng sanhgánh vác lấy gánh nặng, được phước đức vô lượng, khó có thể nói hết được”.

Gánh vác chúng sanh trong đời mạt thế, như lời nguyện của ngài A-nan trong kinh Lăng Nghiêm:

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho
Đời ác năm trược thề vào trước
Còn một chúng sanh chưa thành Phật
Rốt chẳng nơi kia nhận Niết-bàn.

Bồ-tát gánh vác chúng sanh bằng cách mặc mũ giáp vô biên của tánh Khôngđại bi:

Bồ-tát mặc giáp trụ
Để nhiếp các chúng sanh
chúng sanh vô biên
Mặc giáp cũng vô biên…
Chúng sanh khổ sanh tử
Bức bách chẳng an ổn
Tôi thường làm cứu hộ
Mặc mũ giáp vô biên.
Vô biên khổ sanh tử
Tôi làm giải thoát được
Lưới ái kiến trói chặt
Tất cả đều sẽ đứt.

Mũ giáp ấy chính là tam-muội hải ấn bao trùm tất cả chúng sanhthế gian. Tam-muội hải ấntánh Khôngđại bi trùm khắp: “Dùng ấn lìa tánh ấn tất cả pháp nên các Đại Bồ-tát phải nhập vào ấn môn biết khắp tự tánh của tất cả. Lại như biển lớn, tất cả các dòng nước đều chảy vào trong ấy. Tất cả các pháp vào trong pháp ấn cũng như vậy. Thế nên gọi là hải ấn, ấn tất cả pháp đều vào trong hải ấn tất cả pháp, ở trong ấn ấy thấy tất cả pháp đồng pháp ấn”. Hải ấn ấy cũng là đại bi trùm khắp tất cả chúng sanh: “Đời mạt thế năm trăm năm sau, lúc Chánh pháp gần diệt, ông dùng pháp ấn ấy để ấn chúng sanh”.

Mũ giáp cứu thế gian, nhưng thế gian chẳng thể làm hư hại, vì mũ giáp ấy là vô tướng, chẳng thể thấy, chẳng thể chạm đến được. Mũ giáp là sự chiến thắng hoàn toàn với thế gian:

Đạo ấy rất sâu: không sanh không khởi, không xuất không tác, không đắc không hành, không xứ không trụ, không chướng không sự. Nơi tất cả sự lại có thể hiển hiện rõ ràng. Nơi tất cả sự mà không sai biệt. Chẳng xoay chuyển theo sự; do vì vô sự mà đến chỗ tối thượng.

Nơi mũ giáp ấy, thừa ấy, đạo ấy, các Đại Bồ-tát phải biết như vậy. Nhưng mũ giáp ấy, thừa ấy, đạo ấy không chỗ thấy được, không chỗ biết được, vì bất khả đắc vậy. Người mặc mũ giáp, người ngồi thừa ấy, người hành đạo ấy cũng chẳng thấy được, cũng chẳng biết được, cũng chẳng thể đắc”.

Mũ giáp vô địch ấy còn gồm cả thệ nguyệnhồi hướng, nghĩa là gồm cả những yếu tố của con đường Bồ-tát:

Chúng tôi dùng ánh sáng
Sẽ ở trong mạt thế
Vì các người cầu pháp
Mà làm lợi ích lớn.
Chúng tôi phát thệ nguyện
Sẽ ở trong mạt thế
Vì tất cả chúng sanh Hộ trìkiến lập.
Chúng tôi nơi nước pháp
Thệ nguyện uống trọn hết
Mà với pháp môn ấy
Sẽ làm người thủ hộ
. “

Chúng tôi đem thiện căn này hồi hướng cho tất cả chúng sanh…”. Chính vì lời nguyện bổn nguyện đại bi với vô biên chúng sanh mà Bồ-tát ở lại thế gian, vì nếu khônglời nguyện đại bi, mũ giáp tánh Không sẽ phá hủy tất cả thế gian và Bồ-tát sẽ hoàn toàn thoát khỏi ba cõi:

“Lúc Bồ-tát mặc đại mũ giáp, nếu chẳng dùng từ bi hỷ xả soi khắp chúng sanh, chẳng yêu chúng sanh như mình, thì mũ giáp ấy cả đại địa chẳng chịu đựng nổi, tất cả chúng sanh chẳng thân cận được. Vì thương xót tất cả chúng sanh mà các Đại Bồ-tát mặc đại mũ giáp, có thể dùng mũ giáp gia trì cho địa giới và thủy, hỏa, phong giới, làm cho địa giới này chẳng nghiêng đổ, tất cả chúng sanh khỏi kinh sợ, lại có thể làm cho thủy giới, hỏa giớiphong giới tùy theo chỗ thích ứngphát khởi hiệu năng”.

Tóm lại, mũ giáp của Bồ-tát là tánh Không hợp nhất với đại bi vậy. 

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo năm 2017 | Số 276 ngày 1-7-2017
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1546)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1404)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1820)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1576)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1350)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1638)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2163)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1905)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1264)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1444)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1440)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1731)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1484)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1349)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1493)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1434)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1759)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1458)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1417)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1432)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1504)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1691)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1591)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1532)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1408)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1497)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1216)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1388)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1541)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2908)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1547)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1736)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2036)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1577)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1777)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1977)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2173)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1641)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2613)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1706)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1888)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1849)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1615)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2356)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1792)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1852)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1721)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2092)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant