Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán "Không", và Chiếc Ghế Trống

17 Tháng Bảy 201707:35(Xem: 5307)
Quán "Không", và Chiếc Ghế Trống

QUÁN “KHÔNG”, VÀ CHIẾC GHẾ TRỐNG

                     

Lời tác giả: Thế giới đang bày tỏ lòng tiếc thương Lưu Hiểu Ba, nhà tranh đấu cho Dân Chủ, Tự Do, người được trao giải Nobel Hòa Bình cao quý năm 2010 khi đang ngồi tù với bản án 11 năm.

         Xin chia sẻ một bài viết cũ trong tinh thần Bát Nhã, thay lời cảm phục và kính tiếc.

                                                                                          Huệ Trân

 

         Sau thời công phu sáng, tôi thường tự đãi mình một tách trà nóng.

         Bên khung cửa sổ nhìn ra khu vườn trước, những cây phong cao sững, lá vàng từ mùa thu, đang chuyển mầu đỏ sậm, và thỉnh thoảng, có những lá đã vui chơi, bay theo làn gió mùa đông mời gọi.

         Thường, đây là những khoảnh khắc tĩnh lặng và an lạc nhất trong ngày, khi lời kinh còn phảng phất không gian và hương trà nhắc nhở “Hãy sống giây phút hiện tại”

         Ấy thế, mà sáng nay, hương trà lại luẩn quẩn bên hiên hàng xóm. Họ làm gì mà thức sớm, mở cửa garage, rồi khá huyên náo? Hình như họ chuẩn bị đi đâu? Chắc thế, vì người lớn, trẻ nhỏ đều lăng xăng túi xách, và không lâu, họ gọi nhau lên xe; xe lăn bánh, cửa garage tự động, từ từ khép.

         Không gian trở lại yên tĩnh.

         Bây giờ, căn nhà hàng xóm hoàn toàn trống vắng sau khi mọi người cùng lên xe, cho một chuyến đi chơi đâu đó.

         Bên này, tách trà đã nguội, nhưng hậu vị thơm thơm, chát chát của lá trà thì vẫn còn nguyên.

Có thật căn nhà đã trống vắng? Có thật hương trà hãy còn nguyên, hay chỉ là cảm nhận? Vừa khởi nghĩ thế, tôi tưởng như  quanh đây, tiếng mõ ai đang gõ nhịp, trầm và đều, của có, không, còn, mất …

 

Những cánh cửa căn nhà hàng xóm đã đóng kín. Mọi người đều vừa lên xe, ra khỏi nhà. Căn nhà đó đang trống vắng. Đúng thế. Nhưng nhìn qua lăng kính Tương Tức, Tương Nhập thì căn nhà đó có thật trống vắng không? Hay nhìn vào căn nhà ấy, bằng tâm quán Không, vẫn thấy có người, có đầy đủ gia đình hàng xóm, dù thực tế, họ đã ra khỏi nhà?

Tại sao thế?

Bởi có người ở, mới có cái nhà. Ta không xây nhà để không có người ở. Vậy, “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” có phải là:

“Căn bản của KHÔNG là, cái này có thì cái kia có; và căn bản của CÓ là, cái này không, thì cái kia không”?

Rốt ráo, thì không chứng đắc mới thực là chứng đắc.

 

Khoảnh khắc tĩnh lặng buổi sáng, tưởng chỉ bị chút huyên náo của hàng xóm khiến tâm khởi xôn xao thế thôi. Ai ngờ, cái có, cái không đó lại lập tức liên tưởng đến tin tức đang chạy hàng đầu trong loạt tin tuần qua, mà dù không đọc nội dung, chỉ những cái tựa cũng đủ biết điều gì.

Đó là, giải Nobel Hòa Bình năm nay đã long trọng được đặt vào một chiếc ghế trống!

Một giải thưởng cao quý, được thế giới công nhận từ nhiều thập niên, nay trao giải cho CÁI GHẾ TRỐNG ư?

Tất nhiên là không phải!

Toàn thể quan khách dự kiến, đồng loạt đứng dậy, vỗ tay không dứt, để bầy tỏ sự ngưỡng mộ và tán thưởng khi chủ tịch Ủy Ban giải Nobel Hòa Bình đặt văn bằng và huy chương vào chiếc ghế trống.

Mọi người nhiệt liệt ngưỡng mộ và tán thưởng CÁI GHẾ TRỐNG ư?

Tất nhiên là không phải!

Vậy thì, cái ghế đó TRỐNG, nhưng KHÔNG TRỐNG.

Văn bằng KHÔNG người nhận, nhưng CÓ người đã được chọn để nhận.

Sở dĩhình ảnh chiếc ghế trống và văn bằng cùng huy chương không người nhận là vì người được chọn lãnh giải là ông Lưu Hiểu Ba, một, trong những sinh viên lãnh tụ phong trào tranh đấu cho Dân ChủNhân Quyền tại Thiên An Môn năm 1989. Người sinh viên 33 tuổi năm đó, nay đã 54 tuổi, và hiện đang ngồi tù với bản án 11 năm, bị tuyên xử năm 2009.     

 

Nhà nước Trung Quốc đã tận dụng mọi cách, để phản đối Ủy Ban tuyển chọn nhân vật đoạt giải Nobel Hòa Bình ở Na Uy, khi tên ông Lưu Hiểu Ba được công bố. Không ngăn được điều đó, họ quay sang, dùng toàn lực, thế kẻ mạnh để vận động những nước còn bị dưới áp lực của họ, không được cho đại sứ ở Na Uy tới dự lễ trao giải (trong đó có Việt Nam). Tất nhiên, là nhà nước ngăn cấm ngay, tất cả những ai được nhận diệngia đình, thân thuộc, bạn bè của ông Lưu Hiểu Ba, để không cho phép được đại diện ông, sang Na Uy lãnh giải.

 

Lịch sử luôn tái diễn những điều nghịch lý, bị phản ứng ngược, nhưng hầu như, không nhà nước độc tài nào đi ra ngoài vết xe đó được. Những gì càng bị cấm đoán, càng bùng vỡ khát khao đòi hỏi; càng bưng bít, càng gây hiếu kỳ tìm tới, phanh phui.

Vô hình chung, trước sự theo dõiquan tâm của toàn cầu, chiếc ghế trống đã hiển lộ toàn diện những gì mà nhà nước Trung Quốc muốn phủ nhận, muốn che dấu!

Đó là sự tước đoạt nhân quyền của người dân.

Lại nữa, điều cực kỳ hiển nhiên, là dưới nhãn quan toàn cầu - dù bênh hay chống, dù thuận hay nghịch - đều nhìn thấy nơi chiếc ghế không người ngồi đó, có nhân dáng kiên cường, dũng mãnh mà lại vô cùng an lạc, của khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình năm 2010: Nhà tranh đấu cho nhân quyền, ông Lưu Hiểu Ba, đang chịu án 11 năm trong nhà tù Trung Quốc vì dám tiếp tục nói những điều mà nhà nước không cho nói!

Hầu hết, ai đọc bất cứ hình thức thông tin nào về lễ trao giải Nobel Hòa Bình năm 2010, đều NHÌN thấy ông Lưu Hiểu Ba NGỒI ở chiếc ghế trống đó! Thế mới lạ! Tưởng như, nếu nhà nước Trung Quốc cho phép ông sang lãnh giải thì hình hài bằng xương bằng thịt của ông trên chiếc ghế danh dự ấy, có thể, chưa rực rỡ, linh động, bằng TINH THẦN LƯU HIỂU BA.   Đó là sức mạnh của vô hình, vô tướng, một sức mạnh không quyền uy, không thế lực nào xâm phạm được.

Chiếc ghế trống hôm nay, có thể sẽ thành vô giá, trong bất cứ cuộc đấu giá nào!

Chuyện “khó thấy” là sao những đầu óc thường mưu lược lại làm những chuyện “dễ thấy” như thế!?

Đời sống tâm linh nó lạ lắm! Bao năm khổ công cầu đạo, quỳ dưới tuyết sương suốt ngày đêm ngoài cửa động, đến mức toàn thân sắp thành đá, rồi chặt cánh tay dâng lên cúng dường cũng vẫn chẳng thấy đạo đâu. Vậy mà, chỉ một lời khai thị đúng lúc của Tổ Đạt Ma: “Đưa cái tâm bất an ra đây, ta an cho”, thì  Ngài Huệ Khả đã ngộ đạo, thấu suốt cõi mình, cõi người.

 

Bây giờ, chẳng phải tách trà chỉ nguội, mà bình trà cũng cạn.

Không dám pha thêm trà vì biết đâu, nhâm nhi nhàn hạ, không chỉ quán “Không” mà lại dẫn tới quán “Khó”, quán “Dễ”, trong khi, nắng sớm ngoài kia đã lên, biết bao nụ-ý đang hé nở cho một ngày mới, sẽ thăng hoa!

 

Huệ Trân

                      (Trung tuần, tháng cuối 2010)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1490)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1940)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1765)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1889)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2068)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1438)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1679)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1588)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1653)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1473)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2222)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1917)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1859)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1699)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2009)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1626)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1771)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1978)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1517)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1770)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1733)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1978)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1748)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1605)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1576)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1590)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1676)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1545)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1508)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2030)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1785)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1594)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2138)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1784)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1861)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2058)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2324)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2352)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1888)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2333)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1696)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1725)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2064)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2586)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1482)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1445)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1605)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1435)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant