Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm Ngàn Người Xuống Núi

25 Tháng Bảy 201708:21(Xem: 5541)
Năm Ngàn Người Xuống Núi
NĂM NGÀN NGƯỜI XUỐNG NÚI


Huệ Trân

 

          Khi đọc, hoặc nghe thấy chữ “xuống núi” chúng ta thường tưởng tượng ngay tới hình ảnh những vị đạo sỹ ẩn tu lâu năm chốn thâm sơn cùng cốc; nay vì muốn cứu đời mà xuống núi, mang những đạo lý mầu nhiệm đã ngộ được để chia xẻ với nhân gian.

          Nhưng 5000 người trong tựa bài viết này không hẳn thế, mà đây là những người gồm nhiều thành phần như Thanh-văn, Duyên-giác, nam nữ khất-sỹ, nam nữ cận-sự, đã đứng dậy, rời Hội Liên Hoa trên núi Thứu khi Đức Thế Tôn chấp nhận ba lần, lời thỉnh cầu của Trưởng lão Xá Lợi Phất để sẽ tuyên giảng một pháp lớn.

          Tại sao Đức Thế Tôn sẽ giảng pháp lớn mà 5000 người lại bỏ đi?

Đây là thời điểm khai hội Pháp Hoa trên núi Linh Thứu, người dự hội rất đông, gồm mười hai ngàn khất sĩ, sáu ngàn nữ khất sỹ và nhiều vị đại Bồ Tát khắp nơi câu hội về.

Sau khi Đức Thế Tôn giảng kinh Vô Lượng Nghĩa thì Ngài nhập vào một chánh định, Đó là Vô Lượng Nghĩa Xứ. Từ nơi này, Ngài phóng ra một luồng hào quang soi suốt khắp các cõi Ta-bà, soi tận trời Sắc Cứu Cánh xuống tới địa ngục A- Tỳ. Chúng hội đều thấy rõ những cảnh giới ấy như những cuốn phim đang chiếu trên màn ảnh lớn.

          Trước hiện tượng mầu nhiệm đó, Bồ Tát Di Lặc bèn hỏi Văn Thù Sư Lợi:

          - Thưa Bồ Tát. Bồ Tát đã từng được gần gũi và hầu cận Chư Phật nhiều đời, có khi nào thấy Chư Phật hiện thần biến tướng như vậy không?

          Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bèn nói:

- Có, trong quá khứ tôi đã từng được thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau khi giảng kinh đại thừaVô Lượng Nghĩa thì cũng nhập định rồi phóng quang từ nhục-kế trên đỉnh đầu. Sau khi xuất định, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh tuyên giảng Kinh Pháp Hoa. Hôm nay chúng hội đang được chứng kiến sự việc y như xưa nên tôi tin rằng lát nữa đây Đức Thế Tôn sẽ ban pháp lớn.

 

Phật tử chúng ta học Phật thì đều biết rằng suốt 49 năm truyền đạo, Đức Thế Tôn đã phải tùy căn cơ chúng sanh mà giảng, từ thô tới tế, từ thấp tới cao, phải dùng những thí dụ, những phương tiện dễ hiểu, đi sát vào đời sống dân gian mà dẫn dắt chúng sanh lần từng bước, mở từng nút những giây trói vô hình chằng chịt của vô minh vây phủ. Chính vì thế mà trong hàng con Phật có những khuynh hướng khác nhau như Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-Tát.

Con đường Thanh-văn-thừa gồm những người do cơ may được nghe giáo lý rồi nương theo giáo lý đó mà tu học. Mục đích tối hậu của Thanh-văn-thừa là dốc tâm đạt tới quả vị A-La-Hán là dấu mốc của sự chứng đắc đã chấm dứt được sanh tử luân hồi cho chính mình.

Con đường Duyên-giác-thừa gồm những người kém may mắn hơn, không được trực tiếp nghe giáo lý nhưng biết tinh tấn quán chiếu duyên sinh nên cũng giác ngộ được vô thường, vô ngãthoát khỏi vô minh.

Con đường Bồ-Tát-thừa là con đường thênh thanh lòng từ bi của những người con Phật, theo giáo lý của Đức Thế Tôn tu học, không chỉ độ mình mà còn độ người. Bồ Tát giác ngộ rồi liền phát nguyện đem sự giác ngộ này mà sách tấn, dìu dắt người khác cũng được nếm mùi vị giải thoát như mình.

Do đó, chúng sanh căn cơ tới đâu thì coi sự chứng đắc của mình là điểm cuối cùng, không thể đi xa hơn mà cũng không muốn biết hơn. Cuộc đời này đau khổ quá, luân hồi ghê sợ quá, nghiệp báo chập chùng quá! Nay, tôi nhờ khổ công tu tập theo giáo pháp của Đức Thế Tôngiác ngộ, hết khổ, hết nghiệp, tôi còn mong gì nữa! Thầy  Xá Lợi Phất thưa thỉnh ba lần với Đức Thế Tôn làm chi khi Ngài đã nói:

Chỉ chỉ bất tu thuyết

Ngã pháp diệu nan tư

Đức Thế Tôn đã từ chối như thế. Thôi, không nên nói nữa, vì pháp này vô cùng thâm diệu, rất khó mà hiểu được, tin được. Pháp vô thượng này, chỉ có Phật mới hiểu được Phật mà thôi vì pháp này không cần dẫn giải, chỉ dùng trí tuệ nhận ra được tướng chân thật của các pháp.

Tướng chân thật đó có thể hiểu gọn trong Thập-Như-Thị. Đó là: như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh. Nhìn bằng tuệ nhãn thì mọi pháp đều tự nó “như thế” mà thôi. Như-thị-tướng là trạng tướng như vậy, như-thị-tánh là thể tánh như vậy ... v...v... Nhận ra được bản chất như thị trong suốt này hay không, hành giả cần hội đủ trí tuệ. Trí tuệ từ đâu? Không phải từ giai cấp, bằng cấp đâu, mà từ sự quán chiếu, từ lắng đọng thân tâm.

Nhìn giọt sương đọng trên đọt lá ban mai, sao có người chỉ thấy là giọt nước tầm thường, có người lại hân hoan vì đang được nhìn ngắm hạt kim cương của trời đất?

  

Chưa cần biết Đức Thế Tôn sẽ giảng pháp gì nhưng chỉ mới nghe tới đó, đa số hàng Thanh-văn, Duyên-giác đã nao núng, khó tin. Làm sao các pháp đơn giản “như thế, như vậy, như thị” mà lại thâm sâu tới mức “chỉ Phật hiểu được Phật mà thôi”. Thôi, chúng ta nay cũng đã giác ngộ, giải thoát rồi. Đó chẳng phải là điều mong ước rốt ráo lúc khởi tu hay sao?

Chính vì những ý nghĩ này mà khi Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh cầu của trưởng lão Xá Lợi Phất thì 5000 người đã đứng lên, chắp tayĐức Thế Tôn và cùng nhau xuống núi !

 

Nếu có sanh tử luân hồi, có trùng trùng dưyên nghiệp tiếp nối nhau thì không biết tôi có từng là một, trong 5000 người đã xuống núi, rời Pháp-Hoa-hội năm xưa hay không?

Có lẽ có. Bằng chứng là hơn 2600 năm sau còn đang quanh quẩn cõi ta-bà khổ đau thế này.

Sau khi 5000 người đã khuất dưới chân núi, Đức Thế Tôn mới bảo trưởng lão Xá Lợi Phất:

- Bây giờ ở đây chỉ là những hạt rắn chắc, không còn cành lá rườm rà, ta có thể truyền tuyên pháp lớn, quý vị hãy lắng nghe.

 

Quả thật, đó là bài pháp không chỉ làm rung động đại địa mà còn bật rễ những tư tưởng từng là nền tảng trong tâm người học đạo. Chỉ một câu nhẹ nhàng thôi mà chúng hội tưởng như đất trời chuyển rung:

“Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”

Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau.

Rồi câu tiếp theo còn rụng rời hơn nữa:

“Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành”

Trời ơi, chúng hội có nằm mơ hay không? Họ cũng sẽ là Phật ư? Không ai khởi tâm nghi ngờ lời Phật nói, nhưng tất cả đều bàng hoàng, tất cả đều ngước mắt đẫm lệ nhìn Đấng Toàn Giác. Biết tâm thế gian như thế, Đức Phật mới ôn tồn trấn an rằng:

- Này các con, sự xuất hiện của tất cả các vị Phật từ quá khứ đến nay chỉ có một mục đích duy nhất là hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường Phật Thừa. Đó là : Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến. Khai là mở ra, Thị là chỉ cho thấy, Ngộ là vỡ lẽ, là tỉnh dậy, Nhập là hòa vào, đi vào.

Khai Thị Ngộ Nhập Phật tri kiếntrách nhiệm rốt ráo của các vị Phật, tùy tâm chúng sanh, tùy hoàn cảnh, phương tiện, chỉ cho thấy được tri kiến Phậttỉnh ngộ rồi dẫn dắt chúng sanh chứng nghiệm được tri kiến đó để họ cũng thành Phật, vì thành Phật là gì? Chỉ là phủi được bụi vô minh che lấp Phật tánh sẵn có nơi mỗi người.

Này các con, tại sao 5000 người kia bỏ xuống núi? Vì họ chưa đủ trí tuệ hiểu được sự đơn-giản-tuyệt-đối của các pháp, vì họ chỉ cầu pháp nhỏ mà không tin có thể thành tựu được pháp lớn. Ta nay biết rõ như thế nên đã dùng phương tiện dẫn dắt họ theo căn cơ khác nhau nên mới có ba thừa là Thanh-văn-thừa, Duyên-giác-thừa và Bồ-Tát- thừa. Nay ta nói cho các con biết không phải tam thừa mà chỉ có nhất thừa là Phật-thừa mà thôi, chỉ có cỗ xe lớn mới chở hết khổ đau, không từ bỏ ai. Nay trí còn kém, lực còn non, họ chưa hiểu được nhưng với thiện tâm thì 5000 người vừa xuống núi kia không phải không có người sẽ thành Phật.

 

Quả thật, đại hội Pháp Hoa đã là cơn pháp-vũ ào ạt, dũng mãnh làm bừng xanh từ ngọn cỏ, đóa hoa, tới rừng núi, đại dương bạt ngàn. Mưa pháp lớn, trống pháp lớn trên đỉnh Linh Thứu còn âm vang đến ngày nay với sự chỉ dạy không ngừng nghỉ của bao Bồ Tát hóa thân, bao thiện tri thức đã đốt đuốc cho hàng Phật tử tin, nghe, để cùng nhau đi vào con đường Phật-thừa.

 

Thưa quý đạo hữu, có vị nào cảm thấy mình ở trong số 5000 người từng bỏ xuống núi khi xưa không? Chúng ta sẽ hẹn nhau dưới chân núi để cùng, vừa sám hối, vừa phát nguyện khi leo lên đỉnh Linh Thứu, xin Đức Thế Tôn, một lần nữa phóng quang, từ bi ban mưa pháp lớn, đánh trống pháp vang vì thời mạt pháp này, chúng sanh đang chìm sâu dưới khổ đau cùng cực.

Xin quý đạo hữu đừng bận tâm là đường lên núi Thứu bao xa. Xin mở bất cứ trang kinh nào, quán chiếu, giữ ý buông lời, chúng ta sẽ thấy núi Thứu ngay trong tâm, như câu thơ viết về ngài Trí Khải thế này:

          “Tích xưa ngài Trí Khải

          Tham thiền Tổ Huệ Tư

          Luyện Pháp-Hoa Tam Muội

          Bỗng nhập định chân như

 

          Trong định, sư thấy Phật

          Ngự trên đỉnh Linh-san

          Thuyết Pháp Hoa huyền nghĩa

          Pháp hội vẫn chưa tan ...”

 

Đúng thế, Pháp-Hoa-Hội chưa tan, và sẽ chẳng bao giờ tan với những tâm chí thành cầu pháp.

 

 

Huệ Trân

(Sau thời khóa phát nguyện tụng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh)

Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Bảy 201707:24
Khách
Bài viết hay, chúc bạn tinh tấn với Pháp Hoa môn. Yêu thích pháp môn nào thì có nghĩa là bạn đã có duyên lành với nó và nên quyết tâm hành trì pháp môn ấy cho đến khi thành tựu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 948)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1003)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1141)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1248)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 964)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 949)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1320)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1465)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant