Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Học So Với Hành Thiền

12 Tháng Chín 201704:47(Xem: 5386)
Tu Học So Với Hành Thiền

TU HỌC SO VỚI HÀNH THIỀN
Hai yếu tố này bổ sung hay cạnh tranh với việc tu tập?

Gyalten Deying -  Võ Thư Ngân 

 Tu Học So Với Hành Thiền

Đối với một người quan tâm đến thành tựu giác ngộ thì việc tu học có quan trọng hay không? Một số dòng truyền thừa đặt nặng việc hành thiền hơn tu học, và nói rằng không cần thiết phải tu học, vì điều này chỉ khiến tâm tràn đầy tư tưởng, và tư tưởng thì không phải là thiền. Tạp chí Mandala đã chọn lựa và trưng cầu ý kiến cùng sự quan sát của một số lạt ma, học giảhành giả.

 

Chúng tôi bắt đầu với Nick Ribush nói chuyện với Choden Rinpoche, để xin Ngài ban cho lời khuyên uyên bác. Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, là người có kỷ lục tu học oanh liệt vào thời trẻ, và sau đó, ngài đã nhập thất trong 19 năm. 

 

Choden Rinpoche: Quá trình được đề ra là trước hết, lắng nghe giáo pháp, rồi tư duy về những gì con đã nghe, rồi thiền quán về những điều này. Vì vậy, điều quan trọng lúc đầu là đi tìm một vị thầy uyên bác để tu học với vị này; rồi phân tích bất kỳ điều gì con đã nghe bằng biện chứng hợp lý, đó là việc tư duy; rồi chú tâm nhất điểm vào những điều con đã thiết lập sau quá trình phân tích, điều mà trong bối cảnh này gọi là hành thiền. Thế thì ba điều này phải đi theo thứ tự: văn, tư, tu. Cả hai vị Phật, Đức Thích Ca Mâu NiĐức Di Lặc đều nói như vậy.

 

Nick Ribush: Thế thì nếu không có cả hai yếu tố tu học và hành thiền, chúng ta không thể đạt được giác ngộ, phải không ạ?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con đã học hỏi. Nếu không làm như vậy thì những gì con đã học sẽ không giúp ích gì cho tâm mình.

 

Nick Ribush: Xin cảm ơn Rinpoche. Trước tiên, chúng ta nên lắng nghe những giáo pháp gì?

 

Choden Rinpoche: Điều này còn tùy vào hình thức tu học mà con dự định sẽ thực hiện. Nếu đó là chương trình tu học sâu rộng thì con nên theo gương của chư Tăng trong các tu viện lớn của Sera, Drepung và Ganden, nơi mà các Thầy nghiên cứu năm môn học chính [Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), triết lý Trung đạo (Madhyamaka), Lượng học (pramana), A tỳ đạt ma (abhidharma) và giới luật (vinaya)] qua nhiều năm, hay thậm chí suốt đời. Ở mức độ tu học trung bình thì con có thể chú trọng vào những tác phẩm như Bồ Tát Hạnh (Guide to the Bodhisattva's Way of Life) của ngài Tịch Thiênluận giải về sách này, cũng như Toát Yếu Tu Tập (Compendium of Training). Nếu không có nhiều thời giờ thì con có thể nghiên cứu Lam-rim.

 

Nick Ribush: Hành thiền có phải là một phần trong việc đào tạo chư Tăng tại các tu viện lớn, theo sau chương trình tu học lâu dài không?

 

Choden Rinpoche: Việc hành thiền không phải là một phần của chương trình tu học chính quy, nhưng có những vị sư vừa tu học, vừa hành thiền. Họ thiền quán về những gì họ đã học, học và hành nên đi đôi với nhau. Ban ngày, chư Tăng học thuộc lòng, rồi trì tụng những gì họ đã học thuộc lòng vào buổi chiều, và sau đó, thiền quán về những gì họ đã học vào buổi tối. Đa số các tu việnluật lệ là sau khi vị sư quản giáo kỷ luật đã ra dấu hiệu vào buổi tối thì mọi người sẽ phải ngưng trì tụng, để không làm phiền những nhà sư đang hành thiền. Thậm chí, họ không được mang giày khi đi lại. Vậy là tuy việc hành thiền không phải là phần bắt buộc hay thuộc về chương trình tu học, nhưng chư Tăng được khuyến khích hành thiền, và tu viện cũng tạo ra điều kiện thuận lợi để họ có thể hành thiền.

 

Nick Ribush: Các tu viện lớn có các bậc thầy là thiền giả hay hành giả du già (yogi) để hướng dẫn chư Tăng hành thiền hay không?

 

Choden Rinpoche: Có, và bất cứ điều gì chư Tăng được dạy là để nhắm vào việc hành thiền. Họ học hỏi về tánh Không là để thiền quán về đề tài này, về thiền chỉ là để hành thiền, vân vân…

 

Nick Ribush: Tuy nhiên, những người có công việc, gia đình và không có nhiều thời gian thì nên chú trọng vào Lam-rim?

 

Choden Rinpoche: Đúng, nhưng ngay cả sách Lam-rim cũng có bộ dài, bộ trung bình và bộ ngắn, và những ai có công việc và gia đình thì có thể gặp khó khăn với những bộ dài hơn. Những bộ Lam-rim ngắn như Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay (Liberation In The Palm Of Your Hand), Đường Tu Nhanh Chóng (Swift Path), hay Đường Tu Cực Lạc (Blissful Path), có thể thích hợp với những người có ít thời giờ.

 

Nick Ribush: Những người bận rộn nên thiền quán như thế nào về tác phẩm Lam-rim mà họ đã học hỏi?

 

Choden Rinpoche: Họ phải dành thời giờ để hành thiền và tu tập. Ở Tây Tạng thì không có thời gian dành riêng cho công việc. Người ta tự sắp xếp giờ giấc sinh hoạt và dành một thời gian dài hay ngắn cho mọi việc, tùy theo ý muốn. Họ có thể tu tập một vài tiếng vào buổi sáng, trước khi đi làm, nhưng ở đây, các con phải đi làm đúng giờ giấc theo ý muốn của cấp trên, nên phải sắp xếp thời gian theo cách tốt nhất, ví dụ như tu tập một tiếng trước giờ đi làm và một tiếng sau khi tan sở.

 

Nick Ribush: Những người tu tập như vậy có thể nào có thực chứng hay không?

 

Choden Rinpoche: Có thể chứ. Nếu như tu tập liên tục thì con sẽ ngày càng quen thuộc hơn với pháp tu đó, và hành thiền rất dễ dàng. Nhờ vậy mà con có thể có chứng ngộ.

 

Nick Ribush: Những người tu tập Lam-rim theo cách như vậy thì nên sắp xếp bài thiền quán như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Chẳng hạn như con khởi đầu với bài thiền quán về kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời giờ hơn cho đề mục này, rồi dùng ít thời giờ cho toàn bộ những đề mục khác. Làm như vậy thì con có thể thiền quán toàn bộ đường tu. Khi đã quen thuộc với đề mục kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời gian cho đề mục kế tiếpvô thường và cái chết, rồi bỏ ít thời giờ cho mỗi một đề mục còn lại. Sau đó, khi đã quen thuộc với đề mục thứ nhì thì hãy chuyển sang đề mục kế tiếp. Tuy nhiên, trước khi thiền quán về Lam-rim thì nên hành trì các pháp tu sơ khởi, để tịnh hóa tâm mình và tích tập công đức.

 

Nick Ribush: Làm sao mà kiến thức sách vở trở thành vô niệm? Tâm sẽ chuyển hóa như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Phải mất một thời gian dài thì tâm mới trở thành vô niệm. Đối với phàm nhân thì nhận thức vô niệm duy nhất là các thức của ngũ quan. Ý thức thì chủ yếu là vọng niệm. Chúng ta biết được những điều mà mình biết là nhờ nhận thức bằng suy luận: “Nó như vầy là vì nó như thế kia.”. Điều này cũng là vọng niệm.

 

Nick Ribush: Một số người nói rằng nên dừng tâm vọng niệm và cứ để cho tâm nghỉ ngơi trong trạng thái vô niệm. Điều này có sai không?

 

Choden Rinpoche: Có lẽ một số người nói như thế, nhưng khi nghiên cứu những tác phẩm Phật học lớn, các kinh điểnluận giải thì nó không phải như vậy. Chỉ vì niệm tưởng đã ngưng, không có nghĩa là tâm con đã trở thành vô niệm. Khi thực hành thiền định thì con sẽ chú tâm vào một đối tượng. Khi đó, đúng là con không được suy nghĩ bất cứ điều gì, mà phải ngưng mọi niệm tưởng, ngay cả các niệm thiện, bởi vì chúng cũng quấy nhiễu định tâm của mình, nhưng khi làm được như vậy thì không có nghĩa là tâm con đã trở nên vô niệm.

 

Nick Ribush: Thưa Rinpoche, khi hành thiền ở Lhasa suốt bao nhiêu năm trời thì ngài đã tu tập pháp thiền nào?

 

Choden Rinpoche: Tôi ở trong ngôi nhà đó hơn 20 năm, nhưng không liên tục hành thiền. Tôi đã trì chú, hành thiền chút ít và tu tập các pháp tu khác, nên không có thực chứng về đại định hay bất cứ điều gì tương tự như vậy. Nếu muốn có thực chứng về đại định thì phải tìm một nơi thích hợp để hành thiền. Ngôi nhà ấy không phải là nơi thích hợp, vì tôi không biết khi nào thì công an Trung Quốc sẽ đến nhà. Họ sẽ đến một cách bất ngờ vào bất cứ lúc nào, ngày hay đêm, không hề báo trước, nên tôi luôn luôn có sự nghi ngờ, “Khi nào thì họ tới? Họ sẽ làm gì đây?”, nên tâm trí không đủ thư thả để chú tâm vào đối tượng 100%, vì nếu muốn chứng ngộ đại định thì phải làm được như vậy.

 

Nick Ribush: Ngài có điều gì để nói thêm về mối quan hệ giữa tu học và hành thiền không, thưa Rinpoche?

 

Choden Rinpoche: Nếu muốn hành thiền thì điều quan trọng là phải nghiên cứuhọc hỏi. Nếu không học hỏi thì không có cách nào để hành thiền. Tùy ý con muốn học hỏi nhiều, học vừa phải hay chút ít thôi, nhưng khi thực hành bất cứ pháp thiền nào, dù là thiền quán hay thiền định thì con phải biết mình sẽ thiền về cái gì. Nếu như không biết đối tượng thiền thì không có cách nào để hành thiền về nó, và nếu cố làm như vậy thì con sẽ giống như người mà Đức Sakya Pandita mô tả: người cụt tay đi leo núi. 

 

Nick Ribush: Vậy thì chúng ta không thể đạt giác ngộ, nếu như không thực hiện cả hai việc tu học và hành thiền?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con học hỏi. Nếu không thì những gì học được sẽ không giúp ích cho tâm con bao nhiêu. Đúng là một vài vị thầy ở Tây Tạng và những nơi khác nói rằng con không cần tu học, chỉ cần hành thiền thôi. Họ cho rằng những người tu học chỉ hiểu biết các pháp như cách một người ăn xin biết đến của cải, trong khi những ai hiểu biết nhờ hành thiền thì giống như những người giàu sang, có của cải. Tuy nhiên, văn, tư, tu rất quan trọng. Cả ba yếu tố nên được phối hợp với nhau, bởi vì chúng bổ sung cho nhau.

 

Choden Rinpoche được phỏng vấn tại Trung Tâm Kurukulla, Massachusetts, ngày 19 tháng 11, 2004. Thubten Damchoe thông dịch và Nick Ribush hiệu đính.

 

 

CHODEN RINPOCHE

 

Sinh năm 1931 ở miền Đông Tây Tạng, Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, lúc 3 tuổi đã được thừa nhận là vị tái sinh của Choden Rinpoche đời trước, người đã từng là một ứng viên cho việc chọn lựa Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 12. Khi lên tám, ngài tu họcTu Viện Rabten, và năm 15 tuổi, ngài gia nhập Tu Viện Sera Je, nơi ngài đã tu học năm kinh sách chính.                                                                                                                                                                      Dù Rinpoche đã học xong lớp Lharam và có thể trở thành một Geshe, nhưng sư phụ của ngài bảo ngài khoan dự kỳ thi. Choden Rinpoche quyết định nghiên cứu giáo pháp về Giới luật (vinaya), và ngài được xem là một trong những học giả uyên bác về môn học này. Choden Rinpoche là một trong hai vị lạt ma của Sera Je được tuyển chọn để biện kinh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong kỳ thi tốt nghiệp văn bằng Geshe của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

Trong thời gian Cộng sản Trung Hoa chiếm Tây Tạng năm 1959, Choden Rinpoche sống ở Tây Tạngnhập thất 19 năm. Ngài không bao giờ ra khỏi gian phòng nhỏ bé và tối tăm ở Lhasa, từ 1965 đến 1985, và vì lý do này, hoàn toàn không được biết đến ở tu viện của mình. Năm 1985, ngài được phép rời Tây Tạng để đến Ấn Độ, và từ đó, đã giảng dạy hàng ngàn tăng sinh ở Tu Viện Sera Je tại Nam Ấn qua nhiều năm. Với lời thỉnh cầu của Lama Zopa Rinpoche, hiện nay, Choden Rinpoche đã viếng thăm các nước Tây phương một vài lần để hoằng pháp và hướng dẫn các khóa nhập thất.

 

Nguyên tác Anh ngữ: Tạp chí Mandala tháng 2/tháng 3, 2005

Gyalten Deying chuyển Việt ngữ; Võ Thư Ngân hiệu đính

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 688)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 719)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 796)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1409)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 957)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 996)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 750)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 628)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1293)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1233)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1154)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1034)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1126)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1240)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1174)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1750)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1147)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1177)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1174)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant