Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cõi Trống Nhà Thiền - Minh Đức Triều Tâm Ảnh

18 Tháng Chín 201705:07(Xem: 9023)
Cõi Trống Nhà Thiền - Minh Đức Triều Tâm Ảnh

CÕI TRỐNG NHÀ THIỀN - MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

Tâm Thường Định

Cõi Trống Nhà Thiền


Minh Đức Triều Tâm Ảnh* là một tu sỹ Phật giáo, pháp hiệuGiới Đức. Theo truyền thống Nguyên Thuỷ, tu sỹ Phật giáo Nam Tông thường gọi là Sư. Bên cạnh là một nhà thư pháp nổi tiếng của Việt Nam, văn thơ và mỹ thuật của Người phải nói là “có một không hai”. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn cung kính giới thiệu đa phần là những bài thơ kết thúc bằng dấu chấm thang của nhà Sư mà thôi. Cõi thơ của Minh Đức Triều Tâm Ảnh đặc thù, tĩnh lặng, mênh môngthanh thoát. Không gian thơ của Sư là sự trải nghiệm, chứng ngộ, tỉnh giác và huyễn không. 

Tuy chưa đến Huyền Không Sơn Thượng lần nào, nhưng chúng tôi cũng thấy được cõi thanh tịnh phiêu bồng đó qua hình ảnhthi ca của người. Chúng tôi cũng được cơ duyên gặp và hầu trà với Sư và Hoà thượng Viên Minh tại Thiền Viện Diệu Nhân, Rescue, CA và tại chùa Kim Quang, thủ phủ Sacramento. Con ngườibình dị, ung dung tự tại, với nụ cười hiền lành và đôi mắt tinh anh. Sư là bậc thạch trụ già lam của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam hiện thời, chỉ nghe bài Hạnh Tu của Sư thôi là chúng ta biết con người của Ngài.
Hạnh tu
nói ít, làm nhiều
Ở ăn biết đủ,
sớm chiều nhẹ thân
Công phu
giác niệm, tinh cần
Hoa hương cửa Phật,
thơm gần, thoảng xa (Đá, rác và cỏ thơm. Tập 3, trang 8).
Âu đây cũng chính là lời dạy dỗ và nhắc nhở của Sư dành cho hàng đệ tử tại gia. Chúng ta hãy lắng nghe nhà thơ Tâm Nhiên viết ở đây để biết thêm con ngườicõi tịnh - Huyền Không Sơn Thượng, “Minh Đức Triều Tâm Ảnh lên núi cao, vào tận rừng sâu heo hút Hòn Vượn, chọn một khu đất hoang sơ rộng rãi có triền đồi, hồ nước, lập nên phong cảnh Huyền Không Sơn Thượng. Bằng con mắt thẩm mỹ, dưới bàn tay nghệ sĩ sắp đặt tài tình đã biến nơi hoang dã, thiên nhiên thành cảnh trí thanh nhã đẹp lạ lùng. Giữa khung cảnh núi rừng tịch mịch, tĩnh lặng, thấp thoáng vài mái thảo am, ẩn hiện mấy nhịp cầu ván gỗ qua hồ nước xanh ngần, phất phơ trúc biếc, thảo hoa và có lẽ đó cũng là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, ấn tượng nhất ở nơi sơn cùng thủy tận này. Hồn thơ, hồn nhạc hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi mỹ lệ, để thi sĩ tiêu dao ngày tháng từ thuở nọ cho đến bây giờ. Thơ và hơi thở cùng chan chứa giữa lòng núi trầm sâu tĩnh lặng…” mà chính nhà thơ Tâm Nhiên cũng thốt.
‘Bước chiều phiêu lãng ngàn mây trắng
Lặng cảm điều chi quá diệu thường.’
           Sự diệu thường ở cõi thơ của Sư là sự trải nghiệm và chứng đắc; là sự ‘Hóa Ra'.
Hóa ra chỉ thở và cười
Là trăm niềm nỗi
Một đời xa bay
Hóa ra
Tỉnh thức phút giây
Là ta thấy rõ
Mặt mày chưa sinh!
Rồi Sư vẫn thong dong thẳng tay vào chợ.
Lỡ tay
Rớt xuống cuộc đời
Loay hoay số phận
Khóc cười đìu hiu
Bến sông
Còn chiếc đò chiều
Bạt ngàn sương nước
Liêu xiêu bóng người!
Kế đó thì Sư dùng tất cả các pháp làm phương tiện để giáo hóa chúng sanh, giúp tam đồ thoát khỏi khổ đau chồng chất. Sư ‘Mượn chữ’ làm phương tiện, như con đò đưa khách qua sông hay ngón tay chỉ mặt trăng vậy.
Rong chơi miền bụi trắng
Tờ trăng vàng
Pha lẫn khói sương xanh
Tay muốn hái
Thơ xưa rơi biển lặng
Nghe nỗi buồn
Ngôn ngữ vỡ lanh canh!
Như bao nhiêu vị cao tăng thạc đức khác, Sư luôn là những kẻ lữ hành đơn độc---đi ngược dòng để hoá độ chúng sanh trong cõi u minh--mà tâm không hề nhiễm, vẫn thong dong tự tại quá giang làm trọn bổn phận của bậc ‘Tác như lai xứ, hành như lai sự’ trong cõi tạm này.
Bóng ta
Đi lộn ngược đầu
Chân dài theo vết
Qua cầu cắt đôi
Nửa này
Cát bụi rã rời
Nửa kia
Đón chiếc mây trời
Quá giang! (Bóng Ngược)
Và Sư vẫn lạc quan, tích cực trên con đường hoằng dương chánh pháp, để rồi, Sư thấy sự huyền diệu của Bất Nhị, như bài thơ ‘Chiếc lá và giọt nước’:
Xanh xanh
Chiếc lá nhân sinh
Hôm qua giọt nước
hữu tình đến chơi
Vì thương
sa mạc lòng đời
hóa văn
tình lọc
chữ đời nguồn trong!
Nguồn trong vắc đó, cái tâm trong sáng, cái tâm bồ đề bất thối chuyển đó là động lực để Sư tiếp tục thong dong hành đạo trong cuộc đời. Rồi Sư cũng nhận ra, như Kiba--nhà thơ Nhật, rằng:
My old body:
A drop of dew grown
Heavy at the leaf tip.
Thân già
Rồi cũng vô thường
Phù du
Như một giọt sương
Đầu cành (Toại Khanh dịch).
Hay qua bài “Dặm không” mà Sư đã lãnh ngộ và bảo rằng:
Mải mê
Giữa chốn chợ chiều
Vai đau, tóc lấm
Đã nhiều gian truân
Ta bèn
Rũ áo, phủi chân
Dặm không đủng đỉnh
Chiếc thân nhẹ hều!
Trong chuỗi dài năm tháng của quán trọ trần gian, Sư chợt nhận ra rằng vạn pháp vốn là “Như"
Như mây
Lãng đãng sông dài
Và như hoa nắng
Trên vai ửng màu
Và như
Tóc trắng trên đầu
Hạo nhiên gót lữ
Qua cầu nhân sinh!
để rồi “Tình không”
Trần gian
Trăm việc tạm quên
Thơ đề góc núi
Đầy hiên nắng vàng
Gió trăng
Thế sự không bàn
Giấc thiền lặng lẽ
Nhẹ nhàng tình không!
Tự nhiên, chúng tôi lại nhớ “Một chữ Như" của ngài Phước Hậu. Không biết chúng tôitrùng hợp ý nghĩ về bài Thi kệ cuối cùng của Tổ không?
Nguyên văn bài Thi kệ Ngài dạy:
"Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Đến nay nghĩ lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ."
            Mà chữ Như này có lẽ là tinh thần, “Tác Như Lai Sứ, Hành Như Lai Sự”, là một chữ chiết trong danh hiệu Như Lai, vô cùng thâm thúymầu nhiệm. Mà danh hiệu Như Lai của Phật có đến Mười hiệu. Đó là: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành tục, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật (Thế tôn).
            Cõi thơ của Sư đó như “Giấc thiền lặng lẽ / Nhẹ nhàng tình không!” như chính Sư đã và đang trải qua vô lượng kiếp:
“Hôm qua mộng thấy tụng kinh
Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng
Bao nhiêu cát của sông Hằng.
Là bấy nhiêu kiếp đã từng tử sinh”
Vậy Sư cũng đã chứng ngộ rồi còn gì?
Qua sông bèn gọi con đò
Nôn nao lá rụng hai bờ sắc không
Qua sông giữa cuộc phiêu bồng
Mới hay trăm sự trăng lồng nước xuôi.
            Riêng cá nhân chúng tôi / chúng ta, cũng chỉ là ‘hạt bụi viễn khách ly hương còn dính đâu đó ở cầu sương, điểm cỏ…’ như lời của Sư viết cho Thơ Toại Khanh. Vậy xin được mạn phép ghi lại đây bài thơ Không Đề, khi chúng tôicơ duyên hầu chuyện cùng Sư thay cho lời kết của bài viết CÕI TRỐNG NHÀ THIỀN - MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH.
KHÔNG ĐỀ - WITHOUT TITLE
Kỷ niệm buổi sáng hầu chuyện cùng thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Nắng mai vàng hoe
một áng mây lành
thong dong
Huyền trúc nhẹ lay
in hình mặt đất
vô sanh
Thiền Viện Diệu Nhân
June 9th, 2013.
WITHOUT TITLE
A golden sunny ray
a fresh white cloud
freely sauntered
The leaves of bamboo
dancing with the gentle wind
their shadows reflect on the ground
No beginning and no ending.
Dieu Nhan Zen Monastery
Rescue, CA.
Kính bút
Tâm Thường Định

*Minh Đức Triều Tâm Ảnh là bút hiệu của tỳ kheo Giới Đức, là một trong những người sáng lập[1] ra chùa Huyền Không (Huế) từ mái chùa lá ở đèo Hải Vân trước năm 1978. Ông là một nhà sư giỏi thơ văn, am tường hội hoạ và trang trí mỹ thuật và là một cao thủ cờ tướng từng đánh bại một số kì thủ quốc gia. Đồng thời ông cũng là một trong những người nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp tại Việt Nam những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21. (Nguồn: http://tinyurl.com/TrieuTamAnh)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 113)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 140)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 157)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 162)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 186)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 233)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 264)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 252)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 158)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 295)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 343)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 355)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 611)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 580)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 852)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 470)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 655)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 452)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 853)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 577)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 974)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 685)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 877)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 548)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 678)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 628)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1022)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1200)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant