Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khi Ta Có Niềm Tin Chân Chính

02 Tháng Mười 201707:05(Xem: 6202)
Khi Ta Có Niềm Tin Chân Chính
Khi Ta Có Niềm Tin Chân Chính

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Khi Ta Có Niềm Tin Chân Chính


Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người giống như tất cả mọi người chúng ta, người cũng được sinh ra từ sự kết tinh của cha và mẹ. Cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng hậu Ma Da. Người là Hoàng thái tử Sĩ Đạt Ta chuẩn bị kế thừa ngôi vua nhưng chẵng màng phú quý vinh hoa, vợ đẹp con xinh mà chỉ một lòng tìm ra thân phận của kiếp người để thoát khỏi già, bệnh, chết.

Điểm đặc biệt ở đây Ngài là một con người bằng xương bằng thịt, giống như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng được sinh ra từ bụng mẹ, lớn lên Ngài vẫn có vợ có con như tất cả mọi người thế gian. Ngài là một con người đi tu cuối cùng thành Phật để cứu độ chúng sinh, chúng ta cũng là con người nếu ai chịu tu theo lời Ngài chỉ dạy thì ta cũng sẽ thành Phật trong tương lai. Bởi vì Ngài thường nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Ai trong chúng ta cũng đều có khả năng thành Phật như Ngài, bởi vì Phật là tính biết sáng suốt ngay nơi thân mỗi người, chỉ vì chúng ta chẳng chịu thừa nhận nên đời đời kiếp sống trong đau khổ lầm mê. Phật là con người như tất cả mọi người, vẫn sống làm việc phục vụ vì lợi ích chúng sinh mà không tham lam, sân hận, si mê dính mắc như người đời.

Thế cho nên trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Bồ-tát Thường Bất Khinh dù bị người mắng chửi, đánh đập nhưng Bồ tát vẫn không buồn, không giận không oán, không ghét không thù mà còn nói rằng: Tôi không dám khinh các người vì các người đều sẽ thành Phật. Bồ-tát Thường Bất Khinh suốt cả cuộc đời chỉ làm một việc nhắc nhỡ mọi người đều có tính Phật sáng suốt ngay nơi thân này mà chẵng tìm cầu đâu xa.

Về mặt thực tế cuộc đời Phật là con người dám buông xả hết tất cả những gì thế gian mong muốn, để dấn thân đóng góp, phục vụ, giúp đỡ, sẻ chia không biết mệt mỏi, nhàm chán bằng trái tim yêu thươnghiểu biết, giúp cho con người biết cách làm chủ bản thân để cùng nhau chia vui sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống. Về khía cạnh tâm linh đức Phật giúp cho ta nhận ra tính biết sáng suốt đang tiềm ẩn nơi mỗi người, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy tức là biết, biết mà không dính mắc bị dòng đời cuốn trôi, vậy không phải Phật tính sáng suốt là gì? Tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế, ai nhận ratrở về sống với chân tâm của mình thì đời đời kiếp kiếp thoát khỏi mê lầm khổ đau.

Người cư sĩ tại gia sau khi nghe lời Phật dạy, có suy tư quán chiếu xem xétứng dụng vào trong đời sống hằng ngày mà cảm nhận được an lạc hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Từ đó chúng ta thấy rằng lý tưởng của đạo Phật, giúp cho mọi người trưởng thành trong đạo đức, nhờ nhận thức sáng suốt nên biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời, ngay khi đó mới phát nguyện làm người Phật tử chân chính.

-“Phật tử chùa Thiên Khánh, nguyện noi gương Phật Thích Ca Mâu Ni, dấn thân tu học phước huệ trang nghiêm. Dân tộc nước Việt Nam, phát huy tinh thần mang đạo vào đời, do hai triều đại Lý-Trần sáng lập”.

-“Anh hùng Lý Thường Kiệt khơi nguồn tâm linh mở trang sử mới cho người dân nước Việt. Phật hoàng Trần Nhân Tông đưa đạo vào đời phá trừ mê tín làm rạng rỡ tổ tiên”.

-Người Phật tử chân chính, trước khi làm gì và đi theo quan điểm của ai, chúng ta cần phải tìm hiểu, suy tư chiêm nghiệm, sau khi thấy rõ lợi ích thiết thực, không làm tổn hại người vật, ngay khi đó chúng ta mới tin và bắt đầu thực hành theo.

-Người Phật tử nên đến với đạo Phật bằng sự hiểu biết chân chính, tự soi sáng lại chính mình và thấy rằng tất cả mọi hiện tượng sự vật đều nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống, chính vì vậy chúng ta phải sống đạo đức, tôn trọng luật pháp nhằm góp phần làm trong sạchan lạc cho mình và xã hội.

-Người Phật tử sau khi tiếp nhận lời dạy chân chính Phật-đà, quyết sống trung thành với lý tưởng giác ngộ giải thoát, luôn ý thức gương mẫu làm tròn trách nhiệm đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích xã hội, hộ trì Tam bảo trong hiện tạimai sau.

Lý tưởng cao đẹp người Phật tử tại gia gồm 4 điều và hai câu đối mang tính triết lý sâu sắc, đậm chất văn hóa Phật giáo Việt Nam do hai triều đại Lý-Trần sáng lập. Không chỉ riêng quý Phật tử các đạo tràng Duyên Lành chùa Linh Xứng mà bao gồm quý Phật tử gần xa, có duyên lành nhiều đời, có chí hướng thượng, có niềm tin với chính mình luôn tin sâu nhân quả nguyện noi gương sáng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa đường chỉ lối cho chúng ta, biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Vậy mà, cách nay trên 2600 năm tại đất nước Ấn Độ có một người đã dám từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, và địa vị cao nhất trong xã hội để ra đi tìm cầu chân lý giúp cho mọi người biết cách thoát khỏi khổ đau sinh, già, bệnh, chết.. Người ấy đã vượt thoát mọi sự trói buộc của thế gian để sống đời vô ngã vị tha; giúp cho nhân loại biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời, đó chính là Bồ-tát Sĩ Đạt Ta. 

Trong thế giới loài người, sự hưởng thụ ngũ dục là điều ai cũng đam mê, tham muốn, ham thích như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp, ngủ nhiều, và các tiện nghi vật chất đầy đủ khác. Đa số con người đều bị trói buộc bởi sự chấp ngã của chính mình nên mới sinh ra tư tưởng chiếm hữu. Chính vì vậythế gian này lúc nào cũng đấu tranh giành giựt theo thói quen tham muốn quá đáng nên bị gió nghiệp si mê chấp ngã cuốn trôi, do đó cứ mãi chìm đắm trong biển khổ, sông mê không có ngày thôi dứt. 

Sự sống của con nguời là luôn tìm kiếm hạnh phúc cho thể xác lẫn tinh thần, vậy ai muốn tìm về cội nguồn của an lạc thì ta phải tìm hiểu coi Phật là gì? Là ai? Chúng ta muốn tu học theo lời Phật dạy để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an lạc hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ thì phải biết đức Phật là ai? Tin như vậy là niềm tin chân chính vì có tìm hiểu học hỏitu tập. Phật có phải là con người lịch sử hay là một đấng thần linh thượng đế như người cổ xưa đã gán cho hoặc Ngài là một nhân vật huyền thoại không có thật.

Như Lai Thế Tôn là bậc hy hữu và hiếm có nhất trong loài người, là một nhân cách siêu việt về đạo đức tâm linh. Ngài dấn thân phục vụ vì lợi ích tất cả chúng sinh mà không biết mệt mỏi, nhàm chán, với tình yêu thương chân thật, bằng trái tim hiểu biết vì tình người trong cuộc sống. Đi ngược lại các truyền thống từ xa xưa, nhiều người cho rằng có một vị thần linh thượng đế ban phước giáng họa mà đấng tối cao đã sắp đặt và tạo ra. 

 Chính cuộc sống đơn giản đạm bạc cùng với hành động dấn thân vì lợi ích tha nhân, và việc làm cao thượng của Thế Tôn đã làm cho vua cha Tịnh Phạn thời gian đầu hiểu lầm vì chưa hiểu thấu được giá trị cuộc đời, nên nhà vua đã trách móc Ngài rằng:

 “Tôi không ngờ có một đứa con hèn hạ và yếu đuối như ông, ông đã làm mất hết phẩm chất danh giá của dòng tộc cao quý từ ngàn xưa cho đến nay mà đấng Phạm Thiên đã ban cho. Ông đã bôi nhọ truyền thống vinh quang tốt đẹp đã có từ mấy ngàn năm nay, để trở thành một kẻ ăn xin thấp hèn mà không chịu thừa hưởng cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ. Ông vô tình phỉ báng sự tôn quý mà đấng Phạm Thiên đã ban cho dòng tộc Sakya của chúng ta. Tại sao ông không chịu tu tập theo truyền thống Bà La Môn để được ăn trên ngồi trước, có kẻ nô lệ phục dịch? Ông đã làm ô nhục dòng dõi vua quan Sát Đế Lợi đã có từ lâu đời”.

“Dạ thưa cha, xin người hãy mở rộng tấm lòng từ bi mà cảm thôngtha thứ cho con. Đây không phải là ăn xin của kẻ thấp hèn nghèo đói, mà là con đường sáng và cao thượng của các vị Bồ Tát.. Vì thương xót chúng sinh cứ mãi chìm đắm trong biển khổ sông mê, nên các vị chịu khó, chịu khổ tu tập hành trì, làm chủ bản thân, để phá tan si mê, tối tăm, mờ mịt, giúp mọi người vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống đời bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ”.


Người biết nhận lỗi là người can đảm và có tinh thần trách nhiệm rất cao. Một đất nước mà từ thứ dân cho đến vua quan làm lỗi mà biết nhận lỗisửa sai thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

Chúng ta khi làm việc lỡ gây tạo tội lỗi với ai thì đối với lương tâm phải biết xấu hổ, như khi ta lỡ lấy của ai vật gì thì phải tự thấy ray rức, xấu hổ với chính mình. Ta phải tự nhủ thầm mình là Phật tử thì không được tham lam, trộm cướp, lường gạt của người, nghĩ như vậy rồi ta sẽ hối hận, ăn năn mà không dám tái phạm nữa.

Chỉ có loài người nhờ có ý thức và sự hiểu biết nên mới xấu hổ. Dù trần truồng nhưng loài súc vật không biết xấu hổ vì sống theo quán tính tập nghiệp. Loài người khi không mảnh vải che thân sẽ rất xấu hổ nên đã phải lấy lá, vỏ cây để che thân khi chưa có văn minh, tiến bộ.

 Ngày xưa, hình phạt lõa thể là hình phạt ô nhục nhất của đàn bà. Do đó, những kẻ ăn mặc khiêu dâm, hở hang quá đỗi để chụp hình đăng báo mà không biết xấu hổ là loại người thiếu văn hóa giáo dục. Trong một đất nước mà kẻ trộm cắp, nói dối, lường gạt, thi cử gian lận, dâm ô, chen lấn không xếp hàng, xả rác bừa bãi, nói năng thô bỉ mà không biết xấu hổ thì đó chính là những người thiếu hiểu biết và không có lương tâm.

 Nói tóm lại, biết hổ thẹnxấu hổ là một đức tính tốt. Người biết xấu hổ mới mong tránh được những tội lỗi và mới có thể làm người tốt trong hiện tạimai sau. Là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết hổ thẹn khi lỡ làm điều gì sai quấy, đó là ta biết tu tâm, sửa tánh.

 Người Phật tử chân chính chớ nên can dựtham gia vào những việc tào lao không lợi ích. Trong gia đình, ngoài xóm làng, nơi làm việc, trong trường học hoặc cả nơi công cộng, chỗ nào cũng có thể xảy ra rất nhiều chuyện tào lao. Nói chuyện tào lao không đem lại lợi ích gì cho chúng ta mà còn làm cho tinh thần bị rối loạn bởi những chuyện chẳng ra gì, do đó làm mất thời gian, có khi còn chuốc họa vào thân.

 Một con người khất sĩ dù không có tài sản sở hữu riêng tư, không có quyền cao chức trọng, nhưng tự do tự tại làm chủ bản thân, để chứng minh cuộc đời không có gì phải chiếm hữucon người bị bóc lột và tàn sát giết hại lẫn nhau, vì không nghe theo sự phán xét của bề trên. Như Lai Thế Tôn đã thuyết phục được vua cha có cái nhìn cảm thôngbao dung hơn, hiểu biết sâu sắc hơn, bằng trái tim yêu thương bình đẳng, để rồi sau này tên tuổi của dòng họ Thích không bị mai một và mất đi, mà còn vang danh khắp toàn thế giới; vì nhân cách cao thượng của Ngài đã vượt thoát mọi sự ràng buộc, dính mắc trong cuộc đời, mà vẫn giúp cho mọi người sống có yêu thương bằng trái tim hiểu biết, và làm chủ bản thân để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

       Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật. Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người thế gian, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, để cùng nhau sống với trái tim hiểu biết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 766)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1087)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1262)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1330)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 781)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 748)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 801)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 932)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 820)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 976)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 987)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 979)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 839)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 945)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 999)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1133)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1602)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1151)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1241)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 791)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1363)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1462)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1340)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1194)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1245)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1312)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1293)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant