Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Xả

18 Tháng Mười 201705:20(Xem: 8420)
Tâm Xả

TÂM XẢ

Tâm Minh


Tâm Xả


Trong Phật giáo, từ  ngữ “ xả bỏ hay buông bỏ” được thường xuyên nhắc đi nhắc lại trong nhiều bài thuyết pháp. Tâm xả là một trong 4 tâm vô lượng của chư Phật và Bồ tát, gọi là Tứ vô lượng tâm (Từ Bi Hỉ Xả). Trong Thiền, tâm xả là bước cuối cùng để hành giả hội nhập vào thực tại Tánh Không hay Phật Tánh.

Bài viết nầy sẽ bàn về tâm xả qua 2 lối nhìn: lối nhìn vĩ mô ( qua một quá trình dài) và lối nhìn vi mô ( từng thời điểm hay từng sát na của tâm thức) .

1)    Tâm xả theo lối nhìn vĩ mô:

 Người có nhiều chánh kiếnhành thiện nghiệp, đem lòng từ ái ra giúp đỡ và lòng bi mẫn cảm thông, hoan hỉ hành động vì tha nhân, là được 3 điều tốt Từ, Bi, và Hỉ. Nhưng nếu dừng lại ở đây với tâm không xả, cứ ôm ấp thành quả ấy như một công trạng, một đức hạnh, thì hậu quả là “cái tôi” phồng to ra, tánh kiêu mạn phát triển, xem thường mọi người. Đó là Từ Bi Hỷ Xả diễn ra theo thứ tự chiều thuận. Tại sao có thể diễn ra được như vậy ? – Đó là vì họ có lòng thương người.

 Nhưng đối với những người đầy tà kiếnnặng nghiệp ( tà nghiệp, ác nghiệp), sẽ không có việc ấy xảy ra, vì những người nầy không hề thương người, vốn chỉ biết thương bản thân mình và những người thân của mình (ngã sở). Họ thường xem người khác như kẻ thù, nếu không thì là những con bò sữa để vắt kiệt, hoặc những con dê tế thần. Vấn đề được đặt ra là : làm thế nào để họ có thể tự cải thiện được tà nghiệp ? Và bây giờ, chúng ta hãy thử đem tâm xả ra xem xét ở đây.

 Có lẽ là phải đi theo tiến trình đảo ngược “ Xả, Hỉ, Bi, Từ “, vì không có tình thương thì làm sao bắt đầu bằng từ bi được ? Trước nhất là phải “xả “ cái đã, nhưng xả là xả cái gì ? -  Đó là xả bỏ những tà kiến, chẳng hạn như:

-        Tôi phải làm giàu bằng mọi cách, mặc kệ cho ai ra sao cũng được.

-        Tôi là tài giỏi số một, không ai bằng. Người nào cãi tôi chỉ đáng chết.

-        Tôi chỉ che chở giúp đỡ những người thân và bạn bè của tôi mà thôi, còn những người khác thì nếu không trục lợi được họ thì tôi cũng bỏ mặc kệ họ.

-        Đời là một cuộc chạy đua, ai giỏi thì thắng lợi, ai dở thì thua thiệt ráng chịu.

-        Những người giàu có hoặc trí thức phải bị giết chết hết hoặc trừ khử hết, thì mình mới sống tốt được.

-        Nhà cửa của tôi, tiền bạc tài sản của tôi là thật có. Địa vị của tôi là thật có.

-        Con cái của tôi, vợ hay chồng tôi là thuộc về tôi

-        Sống là phải biết hưởng thụ. Tu hànhngu si, dại dột

-        Tôi còn sống lâu lắm.v.v….

Thật là muôn vàn khó khăn để những tà kiến tương tự như thế có thể bị xóa bỏ trong tâm thức họ. Có lẽ là phải trải qua vô lượng kiếp, trừ phi may ra họ gặp được duyên lành tiếp cận với Phật pháp, quyết tâm học hỏi trau dồi hiểu biết và tu sửa tâm tánh. Nhưng làm sao họ có thể tiếp cận được với Phật pháp một khi họ không thích, không muốn, hoặc cho đó là ngu si nữa ?  Cái giá của họ là phải trải qua nhiều đau khổ cùng cực, may ra mới chịu nhìn lại mà cầu tìm, và sự  khả dĩ nầy cũng không có nhiều. Khoảng cách từ họ đến với giáo pháp là quá xa…, xa hơn cả từ chân trời phía đông đến chân trời phía tây ( Xem Đại luận về Giai trình của đạo giác ngộ Quyển 1 của Đại sư Tây Tạng Tông Cáp Ba). Kết quả là một thế giới hỗn loạn đầy giành giựt, dối trá, giết chóc, và rồi dần dần đi đến hủy diệt như ngày nay.

Nước Nhật là một quốc gia lấy Phật giáo làm quốc giáo . Căn bản giáo dục mầm non của họ là dạy tánh không bon chen tranh giành: từ lớp 1 tới lớp 3 không có bất kỳ một kỳ thi nào, và mục đích giáo dục tiểu học là khai tâm nhiều hơn là khai trí: từ lớp 1 tới  lớp 6 luôn có môn học “nguyên tắc xử thế “ như  một môn đạo đức học thực tiễn. Kết quả tốt cho xã hội ra sao là điều rõ ràng như mọi người đều thấy, khó có quốc gia nào khác sánh kịp: tinh thần kỷ luật, tính nhân bản, cách cư xử tốt giữa con người với nhau.  Nước Bhutan cũng là một quốc gia Phật GiáoQuốc Vương xứ nầy đang chủ trương trồng rừng thật nhiều với mục đích làm sạch bầu khí quyển cho hành tinh của chúng ta.  Thật là một việc đáng ngưỡng mộ.

Trở lại vấn đề xả bỏ tà kiến. Trải qua bao đau khổ, hoặc bị trừng phạt, rồi chiêm nghiệm lại cuộc đờitư duy đúng, một số ít người có thể có được chánh kiến, buông bỏ được tà kiến (Xả), trở nên vui vẻ ( Hỉ), cảm thông ( Bi) và thương người (Từ). Đây là tiến trình đảo ngược Xả, Hỉ, Bi, Từ , khả dĩ của họ khi trở về với thiện đạo. Điều quan trọng là phải tư duy đúng ( chỉ có được ở người có chút lương tri).  Từ tư duy đúng( Chánh Tư Duy) phát sinh ra cái nhìn đúng ( Chánh kiến). Có cái nhìn đúng, cái thấy đúng thì mới có thể buông xả được. Thế nhưng, không phải chỉ có những người ác, người mang tà nghiệp, người nặng nghiệp quay về  với thiện đạo bằng ngõ “ Xả “, mà hầu hết chúng ta, là những người phàm phu nói chung, và những người nghiệp nhẹ, cũng phải bước đi trên con đường thiện đạo bằng ngõ “xả “ nầy, bởi vì  Hỉ, Bi,Từ ( vui vẻ, cảm thông, yêu thương) không thể có được ở một người cố chấp. Lý do là : chúng ta thường có nhiều tà kiến hơn là chánh kiến. Trong lúc chưa huân tập đủ chánh kiến, chúng ta phải đi theo lộ trình Xả Hỉ Bi Từ. Khi có đầy đủ chánh kiến rồi, chúng ta mới có thể đi theo chiều thuận Từ Bi Hỷ Xả của hàng Bồ Tát được.

Chánh kiến nói trên là gì ? Ở đây có nghĩa là chánh kiến tương đối, qui uớc, về một đối tượng nào đó-  là cái nhìn nào, cái thấy nào mà xuyên quachúng ta có thể đi đến được bờ giác ngộ giải thoát . Có bao nhiêu đối tượng để nhìn thấy thì có bấy nhiêu chánh kiến hoặc tà kiến. Huân tập chánh kiến là gặt hái được nhiều chánh kiến hơn và bỏ bớt dần những tà kiến. Cách hay nhất là phải có tâm cầu học và nghe giảng pháp thật nhiều. Khi huân tập đầy đủ chánh kiến thì tình trạng nầy được gọi là viên mãn chánh kiến. Người nầy, tuy chưa giác ngộ nhưng có thể tu tập theo tiến trình chiều thuận Từ Bi Hỉ Xả. Theo tôi, như đã trình bày trong bài viết trước ( số Phật Đản 2016), chánh kiến lớn lao và cơ bản trong cuộc sống là :  Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ. ( Tôi gọi người không có chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy là “người đầy tà kiến”, để dễ diễn ý ngắn gọn trong những bài viết, không có ý chỉ trích).

Đó là nói về “xả” theo quan điểm vĩ mô, tức là nhìn nó diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó của kiếp người.

2)     Tâm xả theo lối nhìn vi mô:

 Tiếp theo đây, chúng ta thử nhìn tâm xả theo cái nhìn vi mô, tức là nhìn tại một thời điểm nào đó,  nhìn nó tại từng sát na. Điều nầy liên quan đến Thiền: Thiền địnhThiền quán, tỉ dụ như: tư tưởng thứ nhất diệt, rồi tư tưởng thứ hai sanh khởi , v.v. , và không phải chỉ có trong Thiền, nó cũng có thể hiện diện ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đây là đề tài sở trường của môn  Duy Thức Học Phật giáo, thiết nghĩ điều nầy dành riêng cho những ai chuyên nghiên cứu về môn học phân tích chi ly nầy, ở đây chúng ta chỉ bàn sơ qua về cách nhận dạng tâm xả mà thôi. Vấn đề tìm hiểu là : khi nào tâm xả khả dĩ xuất hiện được ? Hoặc: tâm xả nào là xả thật sự ? Hay là: kiểu nầy có phải là xả hay chưa ?

Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Tôi hiểu đời là vô thường, không có gì tồn tại với thời gian. Thế mà tôi vẫn, bằng mọi giá, xây cất nhà cao cửa rộng đồ sộ y như là tôi sống đời cả ngàn năm. Đó là tôi không có chánh kiến về lẽ vô thường, đó là một cái thấy sai ( tà kiến). Hiểu là một chuyện, nhưng thấy là một chuyện khác ( nhìn đời qua một cặp kính màu hồng, chẳng hạn). Giữa hiểu và thấy là 1 khoảng cách rất xa, xa hơn từ chân trời phía đông qua chân trời phía tây. Thí dụ : tôi hiểu người ấy là vợ của bạn tôi, không nên yêu và cũng không thể yêu được, nhưng mỗi khi gặp, tôi thấy như thể muốn ôm người ấy vào lòng ! Hoặc là: tôi hiểu sâu Phật pháp và hiểu rất nhiều kinh điển, nhưng tôi không muốn tu hành chút nào, tôi xem nó như một mớ kiến thức để trang điểm cho bản thân mình mà thôi. Khá hơn một mức là: hiểu và thấy đều có, nhưng không chấp nhận: tôi hiểu là như vậy, và cũng thấy như vậy, nhưng điều nầy nhất định là không thể được, nghĩa là tôi không chấp nhận. Giữa thấy và chấp nhận cũng là 1 khoảng cách rất xa. Tôi hiểu rằng anh ấy rất thông minh giỏi giang qua tiếp xúc với anh ta,  và cũng thấy anh ta giỏi thật khi làm việc, vậy mà trong thâm tâm, tôi vẫn muốn nghĩ rằng anh ta do may mắn là con nhà giàu mới trở nên được như vậy, tức là tôi không muốn chấp nhận điều ấy. Hiểu, thấy và chấp nhận, là 3 giai đoạn tiến bộ của tri thức và cũng là lộ trình tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Từ  hiểu đến thấy có thể trải qua một vài trăm kiếp, rồi từ thấy đến chấp nhận cũng vài ba trăm kiếp nữa, vì đối tượng để hiểu, để thấy… thì có rất nhiều, chứ không phải có một vài cái .

Thế nhưng, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã viết rằng:  “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngủ uẩn giai không”…….v.v.. , trong đó vị Bồ Tát nầy soi thấy 5 uẩn đều không: Sắc là không…, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều là không, nghĩa là chứng được thực tại Tánh Không, hòa nhập với Giác Tánh Chân Như  ở sát na đó. Cái thấy nầy là chánh kiến tuyệt đối, chánh kiến tối hậu, hay chánh kiến siêu thế gian, là cái thấy siêu việtnhất nguyên, không còn nằm trong thế nhị nguyên đối đãi của chủ thể ( người thấy) và đối tượng ( vật bị thấy) như cái thấy đề cập ở phần trước. Muốn được như vậy, thấy và chấp nhận phải hiện diện cả hai, đây mới gọi là tâm xả đích thật . Một tâm xả đích thật phải gồm có đủ 3 yếu tố: hiểu, thấy và chấp nhận. Nếu không chấp nhận thì có nghĩa là không muốn thấy, không muốn hiểu, là quay lưng với thực tại với tâm bám nắm hay ghét bỏ. Nếu chỉ có hiểu và thấy thôi, thì cái trí có xả, chứ tâm không chịu xả. Thế là giác ngộ giải thoát hãy còn rất xa. Tại sao hiểu và thấy rồi mà lại không chấp nhận ? Đây là câu hỏi cần được giải thích. Cái thấy này là chánh kiến tương đối về một đối tượng nào đó. Đối với người chưa viên mãn được chánh kiến ( huân tập chánh kiến chưa đầy đủ), chung quanh chánh kiến nầy có một số tà kiến  ở  bình diện ý thức hoặc vô thức ( unconscious) bu quanh ngăn cản ám chướng, khiến khởi lên “tâm không chấp nhận”, và như thế , tâm xả cũng không thể xảy ra. Thử nhìn theo một bình diện khác: theo Kinh Sáu Pháp thuộc Tăng Chi Bộ Kinh ( Chương Sáu Pháp- Hội Chúng), 4 giai đoạn chót của lộ trình giải thoát là: 3.Viên mãn chánh kiến, 4.Viên mãn chánh định, 5. Từ bỏ các kiết sử , 6. Chứng ngộ Niết Bàn, ta thấy trong đó, giai đoạn 5 (từ bỏ các kiết sử) là giai đoạn mà tâm xả sẽ sinh khởi. Từ ngữ  “kiết sử” có nghĩa là những sai khiếnràng buộc vi tế,  thuộc về nghiệp, gồm có 10 cái: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham cõi dục, tham cõi sắc, tham cõi vô sắc, sân hận, si vi tế, kiêu mạn, trạo cử vi tế.  Đó là nhìn theo lối nhìn vĩ mô của những tháng ngày tu tập. Nhưng nhìn theo từng sát na của thời điểm tu tập ( vi mô), một hành giả có thể xả được ở thời điểm nầy mà không xả được một thời điểm khác nào đó, tùy theo đối tượng của thiền ở mỗi lúc.

Trong khi hành thiền về quán tâm, chợt có một ý tưởng nào đó khởi lên. Nếu ta vội xua đuổi nó đi, là ta lọt vào trạng thái ghét bỏ, còn nếu ta chìu theo nó và các liên tưởng tiếp theo xuất hiện làm thành một chuỗi, là ta lọt vào trạng thái bám nắm. Cả hai trường hợp nầy đều không phải là tâm xả. Ngược lại, nếu ta không dung dưỡng nó và cũng không xua đuổi nó, và thấy rằng : “ A  ! bộ mặt thật của mày là như vậy đó ! “ Có thể ví như khi một người mẹ cho đứa con mình một viên kẹo ngọt, đứa con liền sáng mắt vui mừng hớn hở, người mẹ thấy rằng “ A ! bộ mặt thật cùa mày là như vậy đó, thằng dởm ! ”.[ Đây là  cái thấy trung lập đầy thông cảm với đứa con của mình]. Khi thấy được như vậy thì cái thấy nầy là một hiển bày, hiển lộ của Giác Tánh thuần khiết nguyên sơ, của Phật Tánh, của Chân Như. Chữ “mày” trong câu trên là chính cái ý tưởng khởi lên đó, mà qua nó, Giác Tánh Chân Như được lóe lên . Đây là dạng Báo Thân Phật ( với ý nghĩabiểu lộ ra cho thấy ).  Vì tâm không bám nắm hay ghét bỏ, ý  tưởng tự đến rồi tự đi, không một dấu vết nào lưu lại trong tâm. Đây là tâm xả đích thật tại sát na đó. Đại sư Tây Tạng Tsele Natsok Rangdrol trong “ Lời tâm huyết cuối cùng lúc lâm chung” có mô tả trạng thái ấy như sau:

Những gì xuất hiệnhiện hữu, thảy đều là sự hiển lộ diệu kỳ của cảnh giới bao la của Giác Tánh, thì cái thấy tối thượng chính là nhìn ra được tâm mình trong tình trạng tột cùng trần trụi nguyên sơ”.

Hay:

 “ Tất cả những tư tưởng khởi hiện lên như là những biểu lộ của Tánh Biết Tự Nhiên ấy, cho dù là thô lậu hay vi tế, đừng phân tách chúng cũng đừng theo đuổi chúng, đừng lôi kéo chúng trở lại trong [kinh nghiệm] thiền định, cũng đừng ngăn cản chúng”.

Và:

“ Nếu chuỗi tư tưởng tiếp tục hoành hành thì chẳng cần đến pháp đối trị nào khác, bởi vì bất cứ cái gì hiện ra cũng sẽ tự giải phóng chính nó. Bất cứ điều gì hiện đến một cách tự nhiên cũng đều là sự chiếu toả chói ngời của chính tâm con. Hãy nhìn thẳng vào tâm ấy bằng cái nhìn sáng rõ linh động…”

 Đối với phần đông chúng ta, mọi tư tưởng khi khởi lên đều không được tâm ta nhận dạng theo kiểu nầy, nên tất cả đều là vọng tưởng, chúng lôi kéo tâm ta như lôi xềnh xệch một xác chết một cách không thương tiếc, vòng hành samsara bắt đầu hoạt động và phát sinh ra thời gian [ tâm lý]. Khoảng cách giữa hai vọng tưởng, lúc mà tư tưởng nầy vừa diệt mất mà tư tưởng mới chưa khởi lên, là một khoảng vắng lặng của Chân Như, được gọi là Pháp Thân Phật, nhưng ít ai nhận thấy được nó  vì do vô minh che lấp. Từ trong khoảng vắng lặng nầy của Chân Như, một ý tưởng được khởi  lên trong tâm từ để cứu độ tha nhân, thì đó được gọi là Ứng Hóa Thân Phật. Đó là lý thuyết về Tam Thân Phật, gồm: Pháp Thân, Báo ThânỨng Hóa Thân.

Chúng ta có thể thắc mắc rằng: tư tưởng của chúng ta khi nào là vọng tưởng, và khi nào là tư tưởng bất nhị thuộc bồ đề chân như ? - Chúng ta đều biết rằng mọi tư tưởng đều nằm trong thế nhị nguyên đối đãi giữa chủ thể ( người suy nghĩ) và đối tượng (đề tài suy nghĩ). Tùy theo chúng ta  nhìn theo góc độ nào, hoặc từ chỗ đứng nào, thì tư tưởng khởi lên cũng sẽ sai khác như thế ấy. (Thí dụ đi vòng quanh một con voi để chụp chừng vài chục tấm hình với khẩu độ ống kính khác nhau, thì những hình chụp được, không có tấm nào giống tấm nào đã đành, nhưng không có tấm nào đại diện cho toàn thể con voi được). Điều nầy nói lên rằng cái thế nhị nguyên luôn luôn là lệch lạc, bất toàn, là  dạng thể của vọng tưởng. Có tư tưởng nào vượt hơn cái bất toàn ấy không ? - Đó là tư tưởng bất nhị, thuộc về nhất nguyên. Hàm ý trong ví dụ trên là: chúng ta phải thể nhập vào con voi thì mới có thể mường tượng hay cảm nhận được con voi ra sao. Tư tưởng nào thể nhập vào thực tại thì đó là tư tưởng bất nhị, hòa nhập vào Giác Tánh, vào Chân Như.  Người ta có thể nghi ngờ rằng: “Nhị và bất nhị không thể có cùng một lúc, nghĩa là không thể có vừa nhị nguyên vừa bất nhị , và như thế không có tư tưởng nào là bất nhị cả”. Thắc mắc nầy được Đại sư Tenzin Wangyal Rinpoche giải thích như sau trong “ Những Yoga Tây Tạng về giấc mộng và giấc ngủ (The Tibetan Yogas of Dream and Sleep):

 “Lúc bắt đầu, rigpa và tư tưởng có vẻ khác nhau, đến nỗi trong kinh nghiệm về rigpa thì không có tư tưởng, và nếu tư tưởng khởi lên chúng ta bị phóng dật và mất rigpa. Nhưng khi sự vững chắc trong rigpa được phát triển, tư tưởng chỉ đơn giản khởi lên và tan biến mà không có chút che ám nào rigpa ; hành giả an trụ trong tỉnh giác bất nhị. Những tình huống này tương tự với học chơi trống và chuông đồng thời trong thực hành nghi lễ : lúc ban đầu chúng ta chỉ có thể làm được một thứ. Nếu chơi chuông, chúng ta mất nhịp điệu của trống, và ngược lại. Sau khi chúng ta đã vững chắc, chúng ta có thể chơi cả hai cùng một lúc…..”

                          ( Rigpa tiếng Tây Tạng, có nghĩa là Tịnh Quang, Ánh sáng Chân Tâm )

Tóm lại, tâm xả là yếu tố căn bảntối hậu để đưa chúng ta vào chánh kiến tuyệt đối, hội nhập vào Tánh Không, vào Giác Tánh Chân Như trong từng sát na ( vi mô) của lộ trình tiến đến giác ngộ giải thoát ( vĩ mô). Lộ trình nầy là một công trình tu tập lâu dài để có được thói quen xả bỏ từ giây phút nầy qua giây phút khác. Khi thói quen nầy được thuần thục, nhuần nhuyển thì chân trời giải thoát mới từ từ ló dạng.
 

                                                                                                                             Lê Tâm Minh
                                                                                                                               21-7-2016
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8259)
Trong những thập niên gần đây, chúng ta đã chứng kiến những sự tiến bộ phi thường trong sự thấu hiểu của khoa học về não bộ và thân thể con người,
(Xem: 9450)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết về một phụ nữ Pháp thật phi thường là bà Alexandra David-Néel (1868-1969).
(Xem: 10194)
Mọi người đều nên có một tôn giáotôn giáo này biểu lộ tư tưởng của họ. Không có tôn giáo, con người sẽ trở thành mối nguy hiểm cho xã hội.
(Xem: 9035)
Bất cứ quốc gia nào, xã hội nào cũng có những loại tín ngưỡng truyền thống do nhiều thế hệ lưu lại.
(Xem: 9132)
Để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau, chúng ta phải thấu hiểu những gì xảy ra trước khi khổ đau.
(Xem: 11196)
Cuộc sống luôn biến động, mọi thứ thoắt ẩn thoắt hiện, có đó rồi không đó. Không ít người đã tự chiêm nghiệm và ...
(Xem: 9933)
Khi chúng ta giận ai, chúng ta thường bám vào khía cạnh nào đó của người đó. Thông thường, chỉ cần một hay hai giây phút cũng đủ buông ra...
(Xem: 17404)
Năm mươi năm qua, Cố HT Thích Thiên Ân, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, và nhiều tăng, ni và cư sĩ Phật Giáo Việt Nam khác đã nỗ lực không ngừng đem Phật Pháp đến với người Mỹ bản xứ...
(Xem: 8045)
Khi chúng ta tiếp cận thế kỷ 21, thì những truyền thống tôn giáo thích đáng hơn bao giờ hết.
(Xem: 8269)
Đạo Phật không phải là tôn giáo như chúng ta thường gọi bây giờ, mà là một con đường sáng để phá tan tối tăm mờ mịt...
(Xem: 8450)
Tôi thường tự giới thiệu mình như một tu sĩ Phật Giáo giản dị vì cá nhântính cách của tôi...
(Xem: 8107)
Tôi Được Triệu Đến Để Trở Thành Đức Đạt Lai Lạt Ma Để Phụng Sự Người Khác.
(Xem: 9982)
Biết ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống thì nhân thân trở thành điểm son cho xã hội, và xã hội sẽ là một cộng đồng để chúng ta muốn sống.
(Xem: 8116)
Trong mùa đông của năm 1940, người ta đem tôi đến điện Potala, nơi tôi được chính thức đăng quang như một lãnh tụ tâm linh của Tây Tạng.
(Xem: 9591)
Khi thực hành chánh niệm là khi ý tưởng bắt hiện ra trong tâm, thì quý vị chỉ cần theo dõi hay buông xả cho chúng tự biến đi.
(Xem: 8391)
Những ngày trong đời tôi bắt đầu vào khoảng ba đến ba giờ rưởi sáng. Khi thức dậy, tôi nghĩ về Đức Phật,
(Xem: 8236)
Ở Dharamsala, trong những người Tây Tạng lưu vong, chúng ta đi gặp người này, một con người trọn vẹn mà chỉ tiếp cận với người ấy có thể thay đổi chúng ta.
(Xem: 8518)
Từ bi có thể bị trộn lẫn với khao khát và dính mắc: tình thương của cha mẹ dành co con cái...
(Xem: 9741)
Mỗi người chúng ta sinh ra trong đời này đều có túc duyên khác nhau. Ai cũng có nghiệp chung, nghiệp riêng, tùy theo khả năng tạo nghiệp của mình.
(Xem: 11106)
Có một anh chàng trai nghèo khổ nhưng lại có một tâm đạo rất lớn.
(Xem: 10123)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ. Chắc chắn khi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương -ghét.
(Xem: 9294)
Bài viết này được đăng tải trên nhiều trang mạng, và gần đây hơn đã được giới thiệu qua lá thư hàng tháng của Viện Nghiên Cứu Phật Học.
(Xem: 9438)
Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta mới tu được, mới chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa.
(Xem: 11718)
Biện tài hay biện tài vô ngại là một trong những phẩm chất cần thiết của vị sứ giả Như Lai.
(Xem: 8528)
Bất kể chúng ta đến từ nơi nào trên thế giới, một cách căn bản tất cả chúng ta là những con người như nhau.
(Xem: 9104)
Chí nguyện thứ nhất của tôi trong đời sống, như một con người, là thúc đẩy những giá trị nhân bản và những phẩm chất đó của tâm linh
(Xem: 8807)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị tái sanh lần thứ mười bốn thuộc dòng truyền thừa hình thành với sự hóa thân Giác Ngộ từ bi...
(Xem: 9213)
Nghiệt ngã thay dòng đời mê muội, bởi thấy biết sai lầm nên mới chuốc họa vào thân, dù biết đó là tai hại, khổ đau, nhưng nhiều người...
(Xem: 10778)
Trong Tâm lý học Phật giáo, có sáu Thức nhận biết: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thứcÝ thức.
(Xem: 9895)
Chúng ta sống để được tự dohạnh phúc, nhưng phải có hiểu biếtnhận thức đúng đắn, chứ không phải chấp trước...
(Xem: 8473)
Trên con đường tu học, nếu ta không can đảm bỏ bớt con mắt thứ hai, mà thậm chí còn thêm nhiều con mắt khác...
(Xem: 9851)
Nguyên nhân của khổ đau, luân hồi sinh tử là gì? Là sự chấp ngã bám víu vào sắc thân năm bảy chục ký lô này là ta, là của...
(Xem: 9945)
Nếu con người có khả năng yêu thương bằng trái tim hiểu biết, sẽ dễ dàng tiếp nhận bình an, hạnh phúc thật sự ở cõi lòng, mà không hề có...
(Xem: 8794)
Tâm tham ái dục vọng là một dòng chảy miên man vô tận, bởi các thói quen lâu đời do ta đã huân tập.
(Xem: 13295)
Thái độ sống lạc quan là điều cần thiết để giúp chúng ta sáng suốt nhìn thấy bản chất của cuộc đời là luôn đối lập nhau.
(Xem: 10007)
Đệ tử tại gia hay xuất gia ai ai cũng làm tròn bổn phận của mình, hỗ trợ nhau, làm thiện tri thức của nhau trên con đường thật tu thật ngộ của Phật.
(Xem: 9134)
Ai cũng biết bố thí là san sẻ, cho đi một phần những gì mình có. Bố thí thì được phước.
(Xem: 26755)
Có những lời nói khi thốt ra làm tan nhà nát cửa, nước mất, nhà tan, tổn hại dân chúng; nhưng cũng có những lời nói làm cho gia đình sống an vui, hạnh phúc...
(Xem: 9858)
Hầu như người đời ai cũng có lần giận dữ chỉ là sự thường. Thế nhưng nhà Phật cho giận dữ là một trong những trạng thái tâm lý quan trọng...
(Xem: 12708)
nhân quả của một người hay cộng nghiệp của một quốc gia không phải tự nhiên mà có, mọi việc đều do chúng ta tạo tác mà kết thành quả báo.
(Xem: 10736)
Chúng ta phải học biết cách sống trong hiện tại để có thể cảm nhận, tận hưởng được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống này.
(Xem: 9835)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10127)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11013)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9749)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10059)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9485)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 9851)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8689)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8434)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant