Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc dịch phẩm "Thiền quán về sống và chết” của Thiền Sư Philip Kapleau

19 Tháng Mười Một 201707:54(Xem: 7371)
Đọc dịch phẩm "Thiền quán về sống và chết” của Thiền Sư Philip Kapleau
Đọc dịch phẩm "Thiền quán về sống và chết” của Thiền Sư Philip Kapleau

 

Do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch từ Anh Văn sang Việt ngữ.
Thích Chúc Hiếu

 

 

thien-quan-song-va-chet-2017Sống chết chính là lẽ đương nhiên, là sự thường tình của thế gian, điều quan trọng là khi sống ta làm được việc gì đó thật sự có thiết thực cho nhân loại hay không?

Phật giáo quan niệm về sống và chết chính là một quá trình tương tục không có khởi đầu và cũng không có kết thúc,  trừ ra những bậc giác ngộ có khả năng đoạn trừ vòng sanh tử luân hồi. Rất nhiều tác phẩm luận bàn về sống chết được nhắc đến khá nhiều và được phân tích khá chi tiết giúp cho người đọc có cái nhìn thật toàn diện và sâu sắc hơn. Tôi thuộc vào hạng người có thể nói là rất yêu quý sách và thích đọc sách, mỗi ngày tôi luôn dành thời gian cho công việc này. Đặc biệt là những tác phẩm có triết lý nhân sinh và những phương pháp thực tập giúp chuyển hoá mọi khổ đau trong đời sống hiện tại. Những tác giả nổi tiếng trong Phật Giáo mà tôi được biết đến như Hoà Thượng Tuyên Hoá, Sư ông Nhất Hạnh, Sư ông Thanh Từ,... và không thể không kể đến Hoà Thượng Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Đức quốc. Bởi ngay từ thời còn học phổ thông, tôi đã có duyên tiếp xúc với những tác phẩm mà Sư ông đã viết và dịch giải.Trong đó, cuốn  “ Giai Nhân Và Hoà Thượng” đối với  tôi vẫn còn rất nhiều ấn tượng cho đến bây giờ.

Lại một duyên lành nữa, tôi vừa được tiếp nhận thêm tác phẩmThiền Quán Về Sống Và Chết” do chính Sư ông và Thượng Toạ Nguyên Tạng ( Tu Viện Quảng Đức, Úc châu)chuyển ngữ. Nguyên tác của Thiền sư người Hoa Kỳ tên là Philip Kapleau với nhan đề “ The Zen of  Living and Dying – A Practical an Spiritual Guide".Còn nhớ trong “ Sống Và Chết Theo Quan Niệm Của Phật Giáo” xuất bản năm 1998, Sư ông đã giúp cho chúng ta phần nào hiểu rõ quan niệm về sống và chết cũng như những phong tục tập quán theo từng nền văn hoá của mỗi quốc gia khác nhau. Thì trong dịch phẩm này, một lần nữa  người đọc được tường tận và có thể làm nghiên cứu để hành trì theo những phương pháp giúp đoạn tận khổ đau, vượt thoát sanh tử luân hồi.

Con người chúng ta từ lúc sinh ra cho đến khi từ giả cõi đời này, chính là một chuỗi tương tục sống chết, chết sống bị tác động bởi duyên sinhduyên khởi. Tôi thật không may mắn chỉ được biết Thiền sư Philip Kapleau thông qua dịch phẩm này; nhưng phải nói rằng Ngài là người có đời sống tâm linhđạo hạnh đáng để hàng hậu học như tôi cúi đầu đảnh lễ và noi theo. Trở lại với dịch phẩm này, với độ dày 375 trang, tác phẩm được trình bày khá chi tiết về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức,từ đầu cho đến cuối tác phẩm, tác giảđã khái quát và bao quát về một tiến trình sống và chết của con người hay một chúng sanh bị chi phối bởi nghiệp lựcnhân quả như thế nào?Với những dẫn chứng cụ thể, người đọc như tôi có rất nhiều cảm nhận sâu sắc với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Điều đáng chú ý ở tác phẩm, đây chính là kết quả, hoa trái của một quá trình công phu,chứng nghiệm thiền tập của tác giả mới có thể hoàn thành một công trình quý giá này, để viết lên những điều mà người bình thường khó thể hoàn thiện được. Với sự biên dịch của hai vị mà lâu nay tôi rất ngưỡng mộ, chắc chắn người đọc sẽ có một nguồn tư liệu quí báu từ trong tác phẩm này. Về hai vị dịch giả là Sư ông Như Điển và Thượng Toạ Nguyên Tạng, từ lâu tôi chỉ biết được thông qua phương tiện truyền thông cũng như những tác phẩm đã xuất bản của quý Ngài, tôi chưa từng được diện kiến, có chăng chỉ là những lời kể lại của các vị đi trước và trong lòng vô cùng kính nể. Đối với Sư ông, cho đến tận tháng tư 2017 vừa qua, tôi mới có cơ hội một lần được đảnh lễ trong chuyến hoằng phápcủa Sư ông ở Hàn Quốc và học hỏi được nhiều điều trong chuyến đi này, với thân giáo, khẩu giáo, ý giáo từ Sư ông, đây chính là niềm hạnh phúc vô biên với chính bản thân tôi. Đối với Thượng Toạ Nguyên Tạng, thì tôi chỉ được biết thông quan hững dịch phẩm của Thầy và trang nhà Quảng Đức,một trang nhà rất nhiều lượng truy cập, thiết thực với nhiều người, mong rằng sẽ một lần được đảnh lễ Thầy. Thế hệ của tôi là những người đi sau, không bao giờ dám luận bàn đúng sai, chỉ nguyện tiếp nối con đường tốt đẹp của quí Ngài đã ngày đêm dày công biên dịchchú giải, cho ra đời những tác phẩm quí báu, giúp cho người đọc có nhiều lợi íchthiết thực trên hành trình vượt bến sông mê.

Việt Nam, những ngày này, cuối năm 2017  người dân đang oằn mình chống chọi với thiên tai, bão dữ. Tác phẩm một lần nữa, cho ta thấy và hiểu được phần nào lẽ vô thường, tạm bợ của kiếp sống nhân sinh. Từ đó, hãy quán niệm về sự sống và cái chết một cách rốt ráo hơn “ Nói cách khác, cái chết không phải là dấu chấm hết mà là dấu phẩy trong câu chuyện cuộc đời” trích từ phần 01 của cuốn sách. Đây là điều thiết yếu quan trọng mà người con Phật cần suy nghĩ cho thấu đáo về cuộc sống của mình, ta luôn phải thăng hoa trên bước đường tu tập, mang lại niềm an vui, hạnh phúc cho mình và cho người.  Mong rằng, dịch phẩm này sẽ đếnđược tay nhiều người và lợi lạc quần sinh.

Chùa Bửu Đà, Sài Gòn

Viết xong ngày 17.11.2017

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 921)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1240)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 681)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 753)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 887)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 771)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 930)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 933)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 859)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 868)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 807)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 888)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 919)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 795)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 822)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1077)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 856)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 943)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1089)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1565)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1100)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1172)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 893)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 747)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1423)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1297)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1260)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1267)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1404)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1281)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1145)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1252)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1235)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1358)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant