Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Trong Tôi

17 Tháng Tư 201807:27(Xem: 5867)
Phật Trong Tôi

PHẬT TRONG TÔI 

Diệu Liên
 Lý Thu Linh

 
Tâm Phật Và Niết Bàn Đồng Hay Khác

Tôi sinh ra trong một gia đình có ít nhiều gắn bó với Phật giáo. Bà nội tôi lúc cuối đời đã dồn hết những đồng tiền bà dành dụm cả đời để cải trang một phần nhà thành nơi thờ Phật riêng biệt. 

   Gọi là chùa thì quá nhỏ, nhưng đó là cả không gian nhà trên của nội, khá rộng, chứa được nhiều hình tượng.  Khi bà mất, dì Tư tôi, sau những thua thiệt trên con đường tình ái đã mang hai con về tá túc, lo nhang đèn cho nơi đó. Tôi nhớ có năm lụt lớn quá, nướcmấp mé vào tận chân thang gác nhỏ trong nhà.  Má sợ quá, khăn gói gửi mấy đứa con lên lánh nạn trên ‘chùa’ với dì. Dì dặn chúng tôi chỉ được chơi đùa ở phía sau nhà.  Chỉ khi nào dì cho phép mới được bước lên nhà trên. 

   Mỗi lần dì ‘bắt’ chúng tôi lên nhà trên lạy Phật. Tôi đi bằng những bước chân rón rén. Tim đập mạnh. Có những bức tượng hình người cao lớn. Mắt lồi trắng dã như trừng dọa tôi. Lưỡi đỏ thè ra dài đến ngực. Tôi có cảm tưởng nếu đứng gần tôi có thể bị cái lưỡi đó quấn chặt. Và khiếp vía hơn cả là những bức hình dán trên các cột nhà nâu bóng. Cảnh những người đàn ông, đàn bà bị vật ngữa. Cưa hai. Bỏ vạc dầu. Cảnh uống máu, ăn dòi... đã ám ảnh nặng nề tâm hồn thơ trẻ của tôi. Vì dì tôi vẫn thường đe dọa: “Tụi bây không nghe lờicha mẹ, ông bà cũng bị quỷ sứ bỏ vào vạc dầu như thế...”. “Ăn cơm bỏ sót hạt nào thì chết xuống âm phủăn bấy nhiêu dòi’...  Tôi thấy hãi hùng những cách trừng phạt của trời Phật. 

   Chiến tranh, thời thế vân vân, rồi cũng tới lúc Phật không còn ở trong chùa của nội, mà là ở những ngôi chùa xa lạ má tôi thỉnh thoảng dắt đi.  Đức Phật ở những nơi đó càng xa vời, càng vô hình hơn và chắc chắn là không phải của những đứa trẻ chúng tôi, mà là của người lớn.  Chúng tôi chỉ được đứng lấp ló, chạy chơi chỗ khác, hay ngồi im lặng ở một xó nào đó để ngắm nhìn người lớn xôn xao bận rộn ngồi lên đứng xuống, để nghe những lời cầu kinh bằng thứ ngôn ngữ chưa từng nghe đến bao giờ, nên chẳng có gì được lưu lại trong ký ức.  Có còn chăng chỉ là hương vị của những món ăn lạ miệng chỉ có ở chùa mới được ăn

   Má tôi là người chịu ảnh hưởng nặng nề ‘đạo Phật’ của dì. Nghĩa là sáng tới chiều, ngày này qua tháng nọ, má luôn rèn chúng tôi như kiểu người ta rèn lính. An cơm bỏ mứa, chết ăn dòi. Cãi lời cha mẹ là trời đánh. Phung phíkiếp sau làm ăn màyNói dối, quỷ  sứ cắt lưỡi...  Trên người chúng tôi có lúc đeo hai ba thứ bùa niệc xanh, đỏ, vàng... ở cổ, cổ tay, cổ chân... Em tôi bệnh, má rước ‘Thầy’ về trị. Cả năm má cứ nay cúng sao, mai cúng hạn cho đứa này, đứa kia. Những hôm giỗ đám, nhà tôi lại giết gà, giết vịt...  Dì và má chưa bao giờ nói cho chúng tôi biết gì về giáo lý của Đức Phật.  Thấy má cúng sao, cầu thầy này, cô nọ, rồi ăn chaythỉnh thoảng còn xuống tóc... mà con cái vẫn bệnh hoài, làm ăn không khá lên nổi, tôi đâmmất lòng tin vào ‘đạo Phật’.  Tôi kết luận rằng chỉ có tâm mình là nhất, không tin gì hết vào trời Phật trên cao.  Xa xôi quá, chả có gì gần gũi với chúng tôi.  Rồi thành kiến cuốn lôi, rồi với sự nông nổi của tuổi trẻ, tôi chẳng bao giờ để tâm hay cất công tìm đọc các sách giáo lý.  Tôi tự cho là mình đã quá rành ‘sáu câu’ khi nghe ai nói về nhân quảduyên nghiệp, bể khổ v.v....  Tôi ngạo mạn tảã lời “Phật tại tâm”, nếu như có ai đó hỏi, “Sao không  đi chùa? Không đọc sách Phật”.

   Đọc Pháp Hoa, tôi thấy thương và đồng cảm với gã cùng tử vô cùng.  Chẳng phải tôi cũng từng lưu lạcbao năm không biết mặt Cha, chẳng phải tôi cũng vô minh, u tối như hắn sao?  Đức Phật là người chatrưởng giả giàu có của tôi, cũng như của bao người, nhưng đã có mấy ai sớm nhận ra cha mình chứ?

   Rồi tôi lớn lên.  Đức Phật càng vời vợi, gần như biến mất khỏi cuộc đời tôi, khi tôi mải mê chạy đuổi theo những viên ngọc của cấp bằng, nghề nghiệp, tình yêu, danh vị, tiền bạc . . .  Những viên ngọc đó thường được đổi bằng nước mắt tràn đầy mà không thể giữ lâu trong bàn tay.  Khoảng thời gian đó, cũng có lúc tôi đã đến nơi cửa Phật, nhưng chỉ để làm nhiệm vụ của người con đưa mẹ đi chùa.  Tôi đứng lảng vảng ở cửa chùa chờ đợi, nhưng từ chối vào lạy Phật.  Nước mắt đã chảy nhiều, nhưng không thể hiểu tại vìsao?  Vẫn còn đầy tự tin ở chính mình, vẫn còn ngời ngời niềm hy vọng sẽ tìm được một người yêu khác, một nghề nghiệp khác, hay một cái gì đó khác, là sẽ được hạnh phúc ngay thôi.  Cũng như gã cùng tử, thàchạy trốn hay thà làm công việc ti tiện chứ chắng chịu nhìn cha.  Tôi cũng chưa chịu nhìn nhận Phật.

   May mắn thay gã cùng tử đã được cha công nhận trước mọi người.  Như tôi cũng may mắn thay trên triền dốc của cuộc đời bỗng được bàn tay ai đó níu giữ lại.  Tôi được níu giữ lại bởi cái chết của một người chị và một quyển sách của người bạn tặng.  

   Trong cái mất có cái được.  Cuộc đời lúc nào không đầy những trớ trêu.  Trong bóng tối của nước mắt lại có bao ánh sáng ập tới.  Lạ lùng đến độ tôi phải kêu lên một tiếng À.  Bàn tay của chị tôi những giờ phút cuối, không còn cầm được những đồng tiền do mình kiềm ra.  Những đồng tiền rơi lả chả xuống mặt chị.   Gương mặt thanh tú của chị giờ đen sạm vì thuốc, vì đau.  Đôi chân đã du lịch bao nơi chốn, giờ không giữ nổi thân chị rồi.  Bao bài học về giáo lý cao siêu của Đức Phật bỗng được tóm gọn lại trong chỉ vài ngày. Vô thườngvô ngã là đó phải không? 

   Gia đình người bạn để lại mấy quyển sách về giáo lý của Phật. Tôi tò mò dở một quyển mỏng nhất có cái tựa “Tu là chuyển nghiệp” của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Lạ chưa? Sau hai, ba trang tôi vẩn còn muốn đọc tiếp. Và tôi không ảlời cho tôi bao nỗi ấm ức trong lòng.  Không, đạo Phật không bao giờ là đạo mê tín,dị đoan như tôi đã lầm tưởng. Cũng không đầy những đe dọa vu vơ. Quyển sách đã như ngòi lủa châm lạilòng tin vẫn âm ỉ cháy trong tôi. Cuốn sách như bàn tay dẫn lối tôi về. Cảm ơn quyển sách nhỏ. Quyển sách đã giúp cho những ngày ngồi bên chị tôi, nhìn cái chết cứ nhích dần, nhích dần từng bước chân, không hoàn toàn là những ngày đầy tuyệt vọng, khổ đau.

   Cảm ơn Đức Phật đã níu giữ tôi lại, để tôi không lăn mãi xuống tận cùng địa ngục, để nước mắt tôi thôi rơi vì những phù phiếm của cuộc đời.  Tại sao tôi đã có thể u mê đến vậy?  Mà mở bừng mắt dậy sao cũng dễ dàng thế?  Chỉ là thế.  Không thể giải thích gì hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 914)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1236)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 704)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 677)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 749)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 726)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 883)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 769)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 926)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 929)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 863)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 805)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 951)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 882)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 828)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 914)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 839)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 788)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 891)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 818)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 852)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 940)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1082)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1559)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1095)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1160)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1040)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 860)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 883)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 739)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1419)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1294)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1257)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1201)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1325)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1247)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1374)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1279)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1136)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1199)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1248)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1355)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1251)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant