Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tĩnh Tâm Giữa Khen Chê

19 Tháng Tư 201805:15(Xem: 6804)
Tĩnh Tâm Giữa Khen Chê

Tĩnh Tâm Giữa Khen Chê 

Thích Đạt Ma Phổ Giác


Tĩnh Tâm Giữa Khen Chê


Khi được khen ai cũng vui tươi,

Khi bị chê ai cũng buồn chán,
Người khôn vượt khỏi khen chê,
Thân tâm an ổnvui tươi làm lành.

Bài kệ ý nói xưng tánca tụng, khen ngợi hay khiển trách, chê bai; nói gọn lại là khen và chê; hai ngọn gió này là một cặp thăng trầmkhác mà con người luôn phải thường xuyên đối phó. Khi được tán dươngca tụngngợi khen thì ta được nở mặt nở mày với tất cảmọi người; khi bị chê bai, chỉ trích thì mặt mày ủ rũ, khốn khổ như kẻ mất hồntinh thần suy sụp.

Có ông già nọ cùng cậu con trai dắt nhau ra chợ để mua ngựa. Mua được con ngựa vừa ý hai cha conmừng quá nên cùng nhau dắt ngựa về nhà. Đi được một đoạn người qua kẻ lại bàn tán xôn xao: “Thiệt là hai cha con ngu dốt làm sao, ai đời mua ngựa làm gì mà không chịu cưỡi, lại dắt đi bộ như thế giữa trời nắng chang chang”.

Hai cha con nghe vậy mới bàn với nhau: “Phải rồi, mình mua ngựa để cưỡi chứ ai lại dắt đi bộ thế này”. Thế là hai người đồng trèo lên ngựa cưỡi đi, nhưng được một đoạn họ lại gặp người khác phê bình: “Đúng là kẻ ác nhân thất đức, hai cha con như vậy mà thượng lên con ngựa thì nó làm sao chịu nỗi, thật là ác độcquá chừng”.

Nghe thế người con lật đật tuột xuống để người cha một mình cưỡi ngựa. Người cha ung dung ngồi trên lưng ngựa và cảm thấy rất vui vẻ, nhưng đi một lát lại gặp một người phê phán, chỉ trích: “Đúng là ông cha thời nay có khác, con còn nhỏ đáng lẽ cha phải nhường con ngồi ngựa, cha gì mà lại đi dành phần hơn, nỡ để con phải đi bộ như thế”.

Người cha nghe nói tức quá chịu không nỗi nên liền xuống ngựa, nhường lại cho con. Đi thêm một đoạn lại gặp người dè bỉu, chê bai: “Đúng là thời đại đảo điên, con cái bây giờ quá bất hiếu, không biết kính trên nhường dưới, đành lòng ngồi trên cưỡi ngựa mà để cha mình phải đi bộ như thế, đúng là thứ con trời đánh”.

Câu chuyện trên nếu nhân vật cha con là chúng ta thì mình xử trí ra sao? Hai cha con sau khi mua ngựa cùng nhau đi bộ thì bị người ta chửi “ngu”, người cha cưỡi ngựa một mình thì lại bị chê “tàn nhẫn”, cùng nhau lên ngựa thì lại bị nói “độc ác”, con cưỡi một mình thì lại bị gọi “thứ con bất hiếu”.

Vậy phải làm sao để vừa lòng tất cả mọi người? Chúng ta ai cũng đều biết trên đời này không bao giờ có chuyện vừa lòng hết mọi người. Nếu nghe một lời chê nào ta cũng sửa đổi theo ý người khác, hay khi nghe khen ta hoan hỷvui vẻ làm theo thì rõ ràng ta cũng giống như hai cha con ông già mua ngựa.

Tức là khi ta được người khen hay bị người chê thì họ chỉ là những người bàng quan bên ngoài lâu lâu chọt vô một tiếng, vậy mà mình lại dính mắc theo họ. Khi làm việc gì ta phải có lập trường của riêngmình, phải xác định mục tiêulý tưởng rõ ràng, không nên vì tiếng khen chê của thiên hạ mà tự làm khổ mình.

Ta có quyền lắng nghe sự khen tặng hay chê bai của người khác, cái gì đúng ta bắt chước làm theo, cái gì sai ta cố gắng sửa đổiNói đúng nói sai, nói phải nói quấy, nói tốt nói xấu là chuyện của mọi người, ta có quyền tiếp thu ý kiến đúng và loại bỏ ý kiến sai. Nếu không như vậy thì suốt cả đời ta cứ bị tiếng khen lời chê làm rối loạn tinh thần nên mất bình tĩnh, do đó dẫn đến buồn vui lẫn lộn mà không làm chủ được bản thân.

Đức Phật an nhiên tự tại trước mọi khen chê

Nói đến khen chê ta hãy xem đức Phật khi bị như vậy Ngài xử trí thế nào? Một hôm, đức Phật đi trướcvà một nhóm sa môn ngoại đạo theo sau. Các vị sa môn trẻ hết lời khen ngợi đức Phật là vị tu hànhchân chính, có trí tuệ và khả năng biện tài vô ngại, dám bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dânthiên hạ để đi tu và là vị thầy dẫn đường xứng đáng nhất thời đó.

Khi nghe như vậy các vị tỳ kheo cùng đi với Phật rất hân hoan, khoái chí vì thầy của mình được mọi ngườikhen tặng nên bản thân cũng được thơm lây. Đi được một đỗi lại gặp đám đông khác nói: “Ông sa môn Cồ Đàm là kẻ phá hoại sự sống của nhiều người. Ai cũng thích tiền tài, sắc đẹp, danh vọng và ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều.

Vậy mà ông ta lại khuyên không nên chạy theo và dính mắc vào chúng mà làm tổn hại thân tâm. Ông ấy đi đến đâu là người ta đổ xô theo đến đó để tu tập khiến chồng bỏ vợ, cha bỏ con để sống đời xuất gia”.

Như chúng ta đã biết, người trẻ tuổi thì khen Phật quá hay, kẻ lớn tuổi thì chê Phật phá hoại hạnh phúc gia cang của nhiều người. Vì Phật nói chuyện nhân quả hay quá nên nhiều người phát tâm tu theo. Khi nghechỉ trích Phật vẫn an nhiênbình tĩnh. Trong khi đó các vị tỳ kheo cảm thấy rất khó chịu, bực bội.

Đến chỗ có bóng cây che mát Phật mới bảo các đệ tử ngồi xuống rồi từ tốn nói bài pháp như sau: “Này các đệ tử, khi nghe lời khen ta chớ vội mừng vì mừng quá sẽ mất bình tĩnh, hễ mất bình tĩnh thì tâm bị dao động, khi tâm bị dao động thì làm sao ta biết rõ người ta khen đúng hay sai.

Khi nghe ai đó chê bai hay chỉ trích thì ta chớ có vội buồn, vì khi buồn ta sẽ mất bình tĩnh, lúc mất bình tĩnhthì ta không biết lời chê đúng hay sai. Khen chê là chuyện thường tình của thế gian, có nhiều người khen để lấy lòng thiên hạ, có nhiều người chê vì ganh tị tật đố. Cho nên, chúng ta phải sáng suốtbình tĩnh trước những lời khen chê đó”.

Cuộc sống của chúng ta hằng ngày lúc nào cũng phải tiếp xúc với hai sự khen-chê. Ta phải lắng nghe lờikhen hay tiếng chê để biết mà sửa mình. Ai khen đúng thì ta cố gắng tiếp thu, thay đổi. Ai khen sai ta phải dè dặt, coi chừng nhưng phải bình tĩnh, khoan mừng, khoan buồn, khoan giận, khoan ghét thì chúng ta mớisáng suốt để nhận thức được tiếng khen đó nhằm vào mục đích gì.
Khi bị chê ta phải biết lắng nghe lời chê để biết được họ nhằm mục đích gì, họ chê để hạ nhục uy tíncủa ta hay chê để ta biết mình sai mà cố gắng sửa sai sao cho tốt đẹp hơn. Theo tâm lý học Phật giáo, tất cảchúng sinh khi nghe ai khen đều rất phấn khởi, vui mừng; khi bị chê thì rất bực tức, khó chịu, buồn phiền. Nhiều khi ta chịu không nỗi nên tức quá cãi lại thành ra hai bên đấu khẩu nhau, cuối cùng “chó le lưỡi, nai giạt móng”. Lời khen tiếng chê tuy không thật nhưng nếu ta chấp vào đó thì thành ra mình bị nó sai sử, khi thì vui mừng quá mức, lúc lại buồn rầu, khổ đau.

Người đời thường chấp vào khen chê cho nên khổ

Ngày xưachúng tôi có quen một cô nọ là người giỏi giang, học giỏi, có bằng đại học và có nhan sắcmặn mà cũng rất dễ thương. Cô có tiền tài, danh vọng nhưng không thích lấy chồng, chỉ thích nghề gõ đầu trẻ mà thôi.

Cô sống như vậy cho đến năm 28 tuổi thì bắt đầu nghe bà con cô bác hàng xóm xầm xì bàn tán với nhau: “Ôi, đồ thứ con gái hư, từng tuổi ấy mà không có ai đến rước, chắc cha mẹ cô ta ăn ở thất nhơn ác đứclắm nên bây giờ cô ta mới bị ế chồng như vậy”. Thật ra, cô ta được rất nhiều chàng trai ưa thíchđến tán tỉnh, nhưng vì cô có tâm nguyện muốn xuất gia tu hành nên đã từ chối hết những lời tỏ tình đó.

Sau khi nghe mọi người chê bai, chỉ trích như vậy, cô tức quá mới nói: “Tôi sẽ lấy chồng liền cho mọi người coi. Tôi xinh đẹpduyên dáng thế này mà nói tôi là cái thứ con gái hư. Để chứng minh cho mọi ngườithấy cha mẹ mình là người có đạo đứccô lập gia đình rồi kế hoạch hóa không cho có con quá sớm để cóthời gian rãnh rỗi mà làm nhiều việc phước thiện.

Có chồng đã hơn ba năm mà chưa có mụn con nào, bà con hàng xóm bắt đầu bàn tán xì xào: “Đúng là câyđộc không trái, gái độc không con”. Ý họ nói cô ta không sinh con được, mà người đời nói phụ nữác độc nên không thể sinh con.

Khi nghe mọi người nói vậy cô tức quá liền bỏ kế hoạch hóa gia đình và bốn năm sau cô sinh được bốn đứa con. Lúc này cô phải đầu tắt mặt tối, vừa đi dạy, vừa chăm lo cho bốn đứa con nên nhan sắctàn phai, mặt mày xuống cấp, trông cô chẳng khác một bà già đã U50.

Vì chạy theo lời khen tiếng chê mà hôm nay cô phải chịu khổ đủ điều, nhưng như vậy đâu đã xong xuôi và êm thắm mọi việc. Chồng cô bây giờ lại sinh tật bồ nhí, vợ lớn vợ bé nên lại có chuyện để hàng xóm xôn xao: “Sao chị ngu quá vậy, chị để cho nó lấy chồng mình công khai, phải cạo cái đầu khô của nó ra mới được, tụi tui sẽ phụ cho”.

Lúc bấy giờ cô mới nói: “Thôi, ổng có vợ bé thì mặc kệ ổng. Tôi vui vẻhạnh phúc sống khi thấy các con đều thành đạt là đủ rồi”. Thật may, cô vì biết đủ nên sống an ổn, nhẹ nhàng, giữ vững được hạnh phúc gia đình cho đến ngày nay đã gần 60 tuổi, con cái giờ đây đều khôn lớn trưởng thành, có nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Chồng cô qua đời trong cơn bạo bệnh nên bây giờ cô không còn bận bịu vì ai nữa, lúc này mọi người lại đến nói ra nói vào như sau: “Thật tội nghiệp cho chị quá, sao chị ở vậy có một mình, chị hổng thấy buồn hay sao?”

Chuyện đời là thế đó, quý vị có thấy không? Chỉ vì lời khen tiếng chê mà cô bạn của tôi đã bị quay như chong chóng suốt gần 30 năm, nhưng những lời đó có giá trị thật sự hay không. Vậy mà khi nghe ai khen “sao dạo này nhìn chị trắng trẻo, đẹp ra nhiều” dù ta đang đen, lùn, xấu thì mình cũng mừng quýnh mà tin đó là sự thật.



Một lời khen đúng sẽ giúp ta thăng hoa đạo đức tâm linh, một lời khen sai chỉ làm hại ta rơi vào hố sâu tội lỗi. Do đó, ta không nên khen ai khi thấy họ làm sai. Một người nào đó uống rượu như hũ hèm, ngày nào anh ta cũng uống mà chẳng bao giờ thấy say, gặp người như vậy ta không nên khen vì sự tác hại của rượu rất ghê gớm.

Mỗi khi không làm chủ bản thân họ có thể hành hạ, đánh đập vợ con, hiếp dâm, giết người bừa bãi. Ta cũng không nên chê bai khi thấy người khác làm việc thiện lành, tốt đẹp, bởi chê như vậy vô tình ta làm hại người đó và làm tổn phước cho bản thân

Đứng về phương diện thế gian, một tiếng khen nhẹ nhàng, đúng lúc cũng như một liều thuốc bổ giúp taphục hồi sức khỏe nhanh chóng, làm ta cảm thấy hài lòng, mát dạ. Nhưng nếu lời khen đó không đúng sự thật, chỉ là lời của kẻ nịnh bợ hay gian dối, phĩnh gạt sẽ làm cho ta sinh tâm cống cao ngã mạnmà chuốc lấy khổ đau vì dễ dàng bị người lợi dụng làm chuyện xấu.

Ta không nên khen để lấy lòng cấp trên, khen để người ta đam mê dính mắc, khen để được lòng mọi ngườiđể rồi ác tâm mưu hại hoặc lường gạt của nhau. Khi thấy ai làm một việc ích lợi cho nhiều người thì ta hãy nên thành thật khen tặng, để người đó càng ngày càng làm tốt hơn trong việc chia vui sớt khổ. Khi ta bị người đời khinh thường, coi rẻ, chê bai thì ta đã biết trước kia mình gieo nghiệp ác quá nhiều, thay vì bị đọa địa ngục để trả quả khổ đau, nay đời này ta bị khinh chê nhiều nên tội nghiệp đời trước lần hồi đượctiêu diệt theo thời gian.

Khen đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng sẽ kích thích cho người đó thêm sự cố gắng mà làm tốt hơnTrái lại, việc khen chê không đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng sẽ làm người đó tự ái mà có thể làm hại lại chính ta. Là người Phật tử chân chính ta phải sống có ý thức trong việc khen chê, phải làm sao cho phù hợp lòng người.

Thường những người quản lý, các nhà lãnh đạo giỏi, các nhà giáo dục tâm linh thường sử dụng lời khenchê như một công cụ giao tiếp chủ đạo nhằm kích thích đối phương càng cố gắng phục vụ tốt hơnLời khen đúng như rót mật vào lòng nên ai không ham, không thích, không khoái sao được. Nó là liều thuốc bổ giúp con người hoàn thành tốt mọi công việc được giao.

Tuy nhiên, cũng không thiếu những người quản lý, các nhà lãnh đạo có tiếng tăm khi tiếp xúc với kẻ dưới quyền họ chỉ phê phán, chê bai nhiều hơn khen ngợi. Họ ít quan tâm lắng nghe sự chia sẻ của người khác, do đó dễ đụng chạm tự ái mà sinh ra phiền muộn, khổ đau.

Khen và chê là hai cặp thăng trầm trong việc đối nhân xử thế. Ai cũng cảm thấy hãnh diện khi được khen và cảm thấy buồn phiền khi bị chê. Những người hay khuyên nhủ, nhắc nhở ta, hay chê trách ta đúng sự thật thì đó là thầy ta. Ta hãy nên biết ơn và cung kính học hỏi người đó. Những ai chê và khen không đúngsự thật tức là kẻ tiểu nhân, kẻ gian dốidua nịnh, hay khen sai để lấy lòng mình thì ta nên thận trọng.

Tỉnh giác để làm chủ khen chê

Khen và chê là hai cặp đối đãi làm cho nhiều người điên đảo và si mê, vọng động. Người trí sẽ không bị lung lạc bởi tiếng khen lời chê nên hiên ngangsừng sững như tảng đá lớn mặc tình cho mưa rơi, gió thổi vẫn không làm lay động được.

Như chúng ta đã biết, từ ngàn xưa đến nay không có một ai hoàn toàn bị chê, hay người trọn vẹnđược khen. Nếu luận về khen chê thì quả thật trong cuộc đời này biết bao giờ ta kể cho hết, nhưng chưa có người nào hoàn toàn bị chê và cũng chưa có người nào được khen trọn vẹn. Chính đức Phật mà còn bị người khác chê bai, chỉ trích, chửi mắng thì huống hồ chúng ta bây giờ chỉ là hạt cáthạt bụi nhỏ nhoi.

Một hôm, trên đường đi giáo hóa Phật bị một người theo sau chửi mắng thậm tệ nhưng Người vẫn thong dongbình tĩnh bước đi nhẹ nhàng, không nói một tiếng nào. Kẻ kia tức quá chạy lên phía trước chặn lại và nói:

“Này Cù Đàm, ông có điếc không?” Phật nói: “Ta không điếc.” “Nếu Ngài không điếc, tại sao nghe tôi chửi mà Ngài vẫn làm thinh?” Phật bảo: “Này anh bạn, giả sử nhà ông có tiệc tùng, ông mời bạn bè người thân tới dự và có chút quà để tặng nhưng họ không đến. Vậy quà đó thuộc về ai?” “Quà ấy vẫn thuộc về tôi chứ ai.” “Cũng vậy, ông từ sáng đến giờ cho ta quá nhiều ngôn ngữ yêu thương nhưng ta đâu có nhận. Vậy quà đó vẫn thuộc về ông.”

Người ta chê bai, chửi mắng Phật nhưng Ngài vẫn an nhiên, bình thản không đón nhận mà còn khởi tâm từ bi thương xót vì người kia quá vô minhmê muộiChúng ta tu theo Ngài cũng vậy, ta không nên để lời khentiếng chê làm rối loạn tâm cang. Bởi người đó không dám chấp nhận người khác có tài đứchơn mình nên mới tìm cách chê bai, lăng nhục Phật như thế. Khi nghe Phật nói như vậy ông ta liền thức tỉnh mà nhận ralỗi lầm của mình do tâm ganh ghét tật đố, từ đó ông phát tâm quy y đầu Phật.

Người chê ta mà chê phải chính là thầy ta, người chê ta mà chê sai là vì ganh ghét, tật đố vì thấy ta hơn họ. Người khen ta mà khen phải là bạn ta, nhưng kẻ khen theo kiểu vuốt ve, nịnh bợ là kẻ thù của ta. Ở đời có hai sự khen chê, một là khen chê bằng tấm lòng chân thật để giúp ta làm tốt hơn hoặc để ta biết sai màsửa sai; hai là khen chê bằng sự ganh ghét, tật đố khi thấy ta thua người hay vì quyền lợiriêng tư.

Miệng lưỡi thế gian lúc nào cũng có hai mặt phải và trái, đúng và sai, ta cần phải nhận biết lời chê tiếng khen của mọi người thật hay giả để biết ai là bạn, ai là thù. Từ vua chúa cho đến thứ dân bần cùng thật khó một ai tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc trong lời nói.

Người chê ta mà chê đúng là thầy ta, người chê ta mà chê sai là kẻ muốn hại ta. Người khen ta mà khen đúng là bạn ta, người khen ta bằng cách tâng bốc, nịnh hót là kẻ vì lợi ích riêng tư, đa số là kẻ dưới quyền. Mỗi khi ta phạm sai lầm thì ta không dễ gì nhận ra.

Người chỉ ra cái sai của ta tức là giúp ta thấy được cái sai của mình thì hiển nhiên họ là thiện hữu tri thứccó hiểu biết hơn ta. Người đó xứng đáng là bậc thầy của ta về trí tuệ. Hơn nữa, họ dám chỉ cho ta nhận racái sai của mình để ta có hướng khắc phục, sửa đổi nên đó chính là người có tâm từ rộng lớn muốn giúp ta thăng tiến trên con đường tu học. Ta hãy tôn xưng người ấy làm thầy để có điều kiện được gần gũi học hỏi và tu hành.

Người khen ta mà khen phải là người tốt không có tâm đố kỵhiềm khích trước những cái tốt, cái hay của người khác. Họ khen ngợi ta để cùng chung vui, chia ngọt xẻ bùi. Đó chính là người bạn tốt, ta hãy nên kết làm bạn tri kỷ.

Trong cuộc đời mình nếu ta có được nhiều người thầy, người bạn như thế thì ta quá ư là diễm phúcTuy nhiên, trong cuộc sống không phải ai khen hay chê mình thì đều là thầy, là bạn của ta. Để nhận rađâu là người bạn đích thực biết khen ta đúng lúc, đúng việc chứ không gian dối, nịnh bợ thật không dễ tí nào.

Trước hết, kẻ gian dối, nịnh bợ khen ta là xuất phát từ lòng vị kỷ, vì mục đích mưu cầu lợi ích riêng tư. Những kẻ đó luôn lấy việc vuốt ve, nịnh bợ để tiến thân khiến cho người được khen ngày càng tự đánh mất mình, xa rời lẽ phải mà rơi vào chỗ khốn cùng. Thật đáng tiếc thay, thời đại nào cũng có vô sốnhững kẻ như thế.

Sử sách đã ghi lại không biết bao nhiêu bậc vua chúa vì những lời ngon tiếng ngọt mà dẫn đến người tôi trung bị hãm hại, dân tình sống điêu linh khổ sở vì nạn bóc lột thậm tệ của kẻ quan quyền. Lời dạy của người xưa luôn giúp chúng ta biết phải sáng suốt để nhận ra đâu là bạn, đâu là thù. Ai khen ta thật lòng thì ta càng cám ơn họ và càng cố gắng làm tốt hơn nữa những việc làm có lợi ích cho xã hội.

Ngày nay, nền kinh tế thị trường mở cửa nên có nhiều người vì muốn được danh thơm tiếng tốt, tiền bạcdồi dào mà bằng nhiều cách thường vuốt ve, nịnh bợ cấp trên nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho riêng mình nên dễ làm tổn hại, thất thoát của chungChúng ta muốn mọi người giúp ta, chỉ lỗi cho ta, chê ta thật lòng thì mình phải biết coi trọng những người đó như ân nhân của mình.

Cũng vậy, đối với gia đình người thân, bạn bè, anh em, ta phải sống với nhau chân tìnhthành thật, dám chỉ ra những khuyết điểm của nhau để ta và người cùng sửa sai mà hoàn thiện chính mình. Nói tóm lại, người khen ta mà khen đúng, người chê ta mà chê đúng thì ta hãy nên nhận những người này là thầy bạn tốt của ta. Ngược lại, người khen ta mà khen sai, người chê ta mà chê sai thì ta hãy nên thương họ nhiều hơn vì họ quá vô minhmê muội nên mới có thái độ và hành động không tốt như thế.

Cho nên, khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an, khi bị bất an ta sẽ bị hai ngọn gió khen-chê thổi bay mất, mà người tu cần phải “Tám gió thổi chẳng động” thì sự tu mới có kết quả tốt đẹp.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1330)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1328)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1220)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1285)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1299)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1318)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1333)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1210)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1453)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1300)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1198)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1160)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1204)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1211)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1333)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1060)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1055)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1125)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1252)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1278)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1043)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1163)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1102)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1237)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1232)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1364)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1440)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1201)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1191)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1335)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1357)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1283)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1583)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1256)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1272)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1299)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1151)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1182)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1293)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1411)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1474)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1632)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1488)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1409)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1177)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1284)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1254)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1317)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant