Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Lại Nguồn Cội

24 Tháng Tư 201807:41(Xem: 6473)
Chuyển Lại Nguồn Cội

CHUYỂN LẠI NGUỒN CỘI 

Nguyễn Thế Đăng

Gương Soi Bóng


Con đường Phật giáo nói chung, và kinh Lăng-già nói riêng, là phá trừ xua tan những vọng tưởng hư vọng, nói tổng quát là vô minh, để nhìn ra sự thật của tất cả mọi sự (thật tướng của tất cả các pháp).

Con đường ấy là ba tự tánh và năm pháp.

“Đại Huệ! Đại Bồ-tát nên khéo biết ba tướng tự tánh; đó làtự tánh vọng kế, tự tánh duyên khởi, và tự tánh viên thành.

Đại Huệ! Tự tánh vọng kế là từ tướng mà sanh. Sao là từ tướng mà sanh? Đó là y nơi sự tướng duyên khởi mà hiển hiện các chủng loại, sanh suy nghĩ chấp trướcSuy nghĩchấp trước sự tướng ấy có hai thứ vọng kế sanh, đó là điều chư Như Lai diễn nói: là tướng suy nghĩ chấp trướcdanh tướng và tướng suy nghĩ chấp trước sự tướng.

Đại Huệ! Tướng suy nghĩ chấp trước sự là suy nghĩ chấp trước các pháp trong và ngoài. Tướng suy nghĩchấp trước tướng là ở trong các pháp trong và ngoài ấy suy nghĩ chấp trước tự tướng cọng tướng. Đó là hai tướng tự tánh vọng kế.

Đại Huệ! Y theo nhân và duyên mà khởi, đó là tự tánh duyên khởi. Sao là tự tánh viên thành? Đó là Chân như của tự chứng thánh trí, lìa tất cả phân biệt danh tướng sự tướng.

Đại Huệ! Đây là tự tánh viên thành Như Lai tạng tâm”.

Hành giả sẽ vượt qua thế giới vọng tưởng phân biệt hư vọng của tự tánh vọng kế, vượt qua thế giới sanh diệt của tự tánh duyên khởi cũng do phân biệt vi tế mà thành, để trở lại thực tại “Chân như, tự tánh viên thành Như Lai tạng tâm” chẳng sanh chẳng diệt. Kinh nói về năm pháp như sau:

“Đại Huệ! Năm pháp là tướng, danh, phân biệtChánh tríNhư như. Tướng là thấy hình trạng của sắc, thanh… mỗi mỗi khác nhau. Y nới các tướng kia mà lập ra danh như cái bình, cái đó là như vậy, không khác, đó gọi là danh. Đặt ra các danh để hiển thị các tướng tâm và tâm sở, đó gọi là phân biệt. Danh kia tướng kia rốt ráo không có gì, chỉ là vọng tâm đắp đổi phân biệtQuán sát như vậy cho đến cái biết (phân biệt) diệt mất, đó gọi là Như như.

Đại Huệ! Tướng Như như là chân thật quyết địnhcăn bảnrốt ráotự tánh có thể đắc. Ta cùng chư Phậttuỳ thuận chứng nhậpnhư thật tướng ấy mà khai thị diễn nói. Nếu có thể tuỳ thuận hiểu ngộ, lìa đoạn lìa thường, chẳng sanh phân biệt, nhập vào tự chứng, ra khỏi cảnh giới ngoại đạo và nhị thừa, đó gọi là Chánh trí.

Đại Huệ! Năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã, tất cả Phật pháp đều gồm hết trong ấy”.

Kinh giảng rõ về sự tương đương của năm pháp và ba tự tánh:

“Đại Huệ! Ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều vào trong năm pháp. Trong đó danh và tướng là tánh vọng kế, vì y vào tánh duyên khởi mà phân biệt tâm, tâm sởđồng thời khởi lên với danh tướng. Tánh duyên khởilà như mặt trời cùng với ánh sáng. Chánh tríNhư như thì chẳng thể hoại, đó là tánh viên thành thật.

Đại Huệ! Khi sanh chấp trước với những cái do tự tâm hiện, có tám thứ thức phân biệt khởi lên. Các tướngsai biệt ấy đều không thật, chỉ là tánh vọng kế. Nếu có thể lìa bỏ hai thứ ngã chấp và pháp chấp thì trí haivô ngã tức thời sanh trưởng.

Đại Huệ! Thanh vănDuyên giác, Bồ-tát, Như Lai, các địa thứ lớp của tự chứng thánh trí, tất cả Phật phápđều gồm trong năm pháp này”.

Với ba tự tánh và năm pháp, chúng ta thấy con đường giải thoát giác ngộ là đi từ mê lầm đến chân thật, từphân biệt so tính hư vọng đến tự tánh viên thành Chân như, từ danh tướng hư giả đến Chánh trí chứng ngộ Như nhưChân như, hay Như như, hay “chân tướng của tạng thức” hay “tạng thức Như Lai tạng” thì “không diệt, vốn vô sai biệtbản tánh thanh tịnh”:

“Chân tướng của tạng thức không diệt, chỉ nghiệp tướng diệt”. “Thức A-lại-da vốn là tướng vô sai biệt”. “Tạng thức Như Lai tạng bản tánh thanh tịnh, chỉ vì khách trần nhiễm ôNhư Lai tạng này là cảnh giớiPhật”.

Chân như hay tạng thức Như Lai tạng bản tánh thanh tịnh, không diệt, vốn vô sai biệt, nghĩa là Chân nhưvốn có sẵn, vốn thanh tịnh mà phân biệt hư vọng, chỉ giả lập tạm thời trên đó mà thôi. Chân như vốn có sẵn thì trí hay Chánh trí cũng có sẵn ví nó chẳng sanh diệt: “sanh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí”. Thức hay sự phân biệt hư vọng là cái sanh diệt trên cái chẳng sanh diệt là trí.

Chân như hay Như Lai tạng hay Chánh trí là nền tảng chẳng sanh diệt của thức sanh diệt và sản phẩm của thức là tất cả ba cõi sanh tử sanh diệt. Như thế con đường đi từ cái sanh diệt đến cái chẳng sanh diệtluôn luôn nằm trên nền tảng chẳng sanh diệt vốn có sẵn. Nói cụ thểhành giả dù có làm gì, dù có tu phápmôn nào cũng luôn luôn ở trên và ở trong nền tảng Chân như Chánh trí chẳng sanh chẳng diệt, luôn luôn ở trên và ở trong “Như Lai tạng là cảnh giới Phật”.

Đến đây chúng ta có thể thắc mắc, các bậc thánh có thấy và có sống với danh tướng không? Hẳn là có vì các vị không lầm lẫn một cái cây với một ghế đá, một dòng sông với một ngọn núi, và các vị vẫn thuyết pháp. Nhưng có lẽ chúng ta cần hiểu thế giới danh tướng của các vị vượt khỏi “hữu vô, thường đoạn…” như kinh nói. Danh tướng của các vị không còn nằm trong phân biệt vọng tưởng; không nằm trong thái độlấy bỏ; không nằm trong các phiền não tham, sân, si…

Các bậc thánh vẫn thấy sự vật là “duy tâm tạo”, nhưng tâm các vị là thanh tịnh nên các sự vật duy tâm tạo này cũng là thanh tịnh. Chính cái tâm như gương sáng, cái tâm đã trở lại nguồn thanh tịnh của nó khiến các vị có cái thấy vượt khỏi suy tưởng của chúng ta:

“Thí như tấm gương sáng không có phân biệttuỳ thuận các duyên mà hiện các hình bóng, đó chẳng phải là hình cũng chẳng không phải hình. Nhưng người bình thường thì thấy ra hình và chẳng phải hình, phân biệt mà tạo ra cái tưởng hình… Thí như ở chỗ đất không có cỏ cây, ánh sáng mặt trời chiếu tạo ra những sóng nắng như nuớc chuyển động, chúng chẳng phải có chẳng phải không, vì là tưởng điên đảosai lầm. Người thường mê muội cũng lại như vậy, tập khí xấu huân tập từ vô thuỷ, trong pháp tánh thánh trí tự chứng lại thấy có sanh trụ diệt, một khác, có không, cùng chung chẳng cùng chung… Thế nên, Đại Huệ! Hãy nên trong pháp thánh trí tự chứngxa lìa tất cả phân biệtsanh trụ diệt, một khác, có không, cùng chung chẳng cùng chung…”

Cái thấy này là cái thấy của Chánh trí Như như. Trong cái thấy này, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đốiđều một vị, một vị “chẳng sanh”:

Chân như, Không, Thật tế,
Niết-bàn cùng vũ trụ
Tất cả pháp chẳng sanh
Là tướng đệ nhất nghĩa. 

Phân biệt vọng tưởng luôn luôn sanh trên nền tảng Chánh trí Như như, như sóng luôn luôn sanh khởi từđại dương và lại tan vào đại dương. Chính vì như vậy mà có sự chuyển thức thành trí, chuyển các thức trở lại nguồn của chúng, có sự giải thoát cho các thức. Thức sanh diệt phân biệt chuyển lại thành trí chẳngsanh diệt vô phân biệt: thức A-lại-da chuyển lại thành Đại viên cảnh trí; thức Mạt-na chấp ngã chuyển lại thành Bình đẳng tánh tríý thức phân biệt hư vọng chuyển lại thành Diệu quan sát trí; và năm thức giác quan chuyển lại thành Thành sở tác trí.

“Phật dạy: Đại Huệ! Phân biệt không sanh không diệt. Vì sao thế? Vì chẳng khởi tướng phân biệt hữu vô, vì các pháp thấy được ở bên ngoài đều không có, vì rõ duy tự tâm mà có hiện. Chỉ vì người ngu phân biệttự tâm thảy thảy các pháp, bám trước thảy thảy các tướng. Khiến họ biết những cái được thấy đều là tự tâm, đoạn dứt tất cả kiến chấp ngã, ngã sở, lìa các nhân duyên năng tác sở tác, rõ biết duy tâm, chuyển ý thành lạc, khéo rõ các địa, vào cảnh giới Phật, xả bỏ các kiến phân biệt về năm pháp ba tự tánh. Thế nên ta nói hư vọng là phân biệt chấp trước thảy thảy do tự tâm hiện mà các cảnh giới sanh. Biết rõ như thật tức được giải thoát”.

Trong thực tế thì: “Danh tướng và thức vốn xưa nay không khởi, ta nói pháp ấy gọi là Như như”.

Khi chuyển thức sanh diệt về nguồn trí chẳng sanh chẳng diệt thì cành lá chính là cội gốc, sóng chính là nước đại dương:

Khéo thông đạt vọng kế
Duyên khởi ắt chẳng sanh
Do thật thấy duyên khởi
Vọng kế tức Chân như.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo 15-4-2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1486)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1932)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1762)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1887)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1478)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2063)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1433)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1672)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1583)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1650)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2219)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1906)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1853)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1687)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2002)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1621)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1764)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1973)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1512)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1757)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1727)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1971)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1745)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1602)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1573)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1588)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1955)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1542)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1503)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2025)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1783)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1590)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2131)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1781)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1856)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2052)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2320)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2350)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1883)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1691)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1717)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2053)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2581)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1475)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1442)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1596)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1431)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant