Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

16 Tháng Năm 201806:49(Xem: 5803)
Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

Sự Thống Nhất Trong Lời Dạy Của Đức Phật Giữa Kinh Và Luật

Thích Trung Định

Lời Dạy  Của Đức Phật

Kinh là lời dạy của đức Phật, đó là chân lý sự thật, là những gì màđức Phật chứng ngộkhám phá và tuyên thuyết ra, mang lại sựan lạc giải thoát cho người hành trì. Kinh, theo tiếng Phạn ‘sutra’, Pāli ‘sutta’, Hán dịch là ‘Tu-đa-la,’ có nghĩa là ‘khế kinh’, tức:“Thượng khế chư Phật chi lý, Hạ khế chúng sanh chi cơ.” (Trên thì khế hợp với đạo lý của chư Phật, dưới thì khế hợp với căn cơcủa chúng sanh). Chữ “kinh” gồm có bốn nghĩa là: Quán, Nhiếp, Thường và Pháp. Quán (kết nối): Kinh nối kết những nghĩa lý dođức Phật thuyết giảng lại với nhau-từng chữ từng chữ một nối kếtvới nhau giống như một tràng hoa. Cho nên, “kinh” cũng có nghĩa là “kết thành tràng chuỗi.” Nhiếp (thâu về): “kinh” cũng giống như nam châm, có thể nhiếp trì, thâu nhiếp những chúng sanh cần được giáo hóa. Thường: những đạo lý trong kinh điển thì vĩnh hằng và không bao giờ biến đổi. Pháp: trong quá khứhiện tại, hoặc vị laimọi người đều tu hành theo những đạo lý trong kinh điển.[1]

Kinh có đủ Lục chủng thành tựu, đó là: Tín thành tựuVăn thành tựuThời thành tựuChủ thành tựu, Xứthành tựu, và Chúng thành tựu. Theo các nhà sớ giải, kinh gồm có năm nghĩa: pháp bổn, vi phát hay xuất sanh, tuyền dũng, thằng mặc, kết man, và hiển thịPháp bổn nghĩa là cội nguồn, và cũng là nền tảng của Pháp. Xuất sanh tức tất cả mọi đạo lý đều phát xuất từ kinh điểnHiển thị nghĩa là trình bày và giải thíchcác chân lý để mọi người có thể hiểu rõDũng tuyền nghĩa đen là suối phun, ý nói những dòng suối đạo lýtừ trong kinh không ngừng tuôn trào. Thằng mặc là sợi dây mực, nghĩa là kinh điển có thể giúp chúng taphân biệt chánh với tà, cũng như sợi dây có chấm mực giúp người thợ mộc vẽ đường thẳng được ngay ngắn vậy. Kinh cũng có nghĩa là ‘kinh lộ’ (con đường), con đường dẫn đến giác ngộ thành Phật. Kinh lại cũng giống như một pho tự điển lớn, bất cứ đạo lý nào cũng có thể được tìm thấy ở trong đó.

Nói tóm lại, Kinh là Pháp bảo, là cội nguồn của trí tuệKinh tạng (Sutta pitaka), bao gồm các bài kinh (sutta), là những bài giảng của Đức Phật và các vị Đại đệ tử của Ngài. Lời dạy đó, gồm đủ: khế lý,khế cơ và khế thời.

Luật là quy tắcquy định, kỷ luật - là những gì mà Đức Phật đã thiết lập, chế định, là các tiêu chuẩn đạo đức căn bản trong các hành vi ứng xử đúng để áp dụng thực hành đối với người xuất gia cũng như tại giaLuật Tạng được tạo thành từ các nguyên tắc kỷ luật đặt ra cho việc điều chỉnh các hành vi của các đệ tử của Đức Phật. Nó chứa các quy tắc và quy định về việc quản lý của Giáo hội Tăng già, các quy tắc áp dụng cho các hành vi trong cuộc sống hằng ngày của Tăng. Những quy định về việc tiếp nhận đệ tử gia nhập vào Tăng đoàn; những nghi thức sám hối, giải tội; những quy định về pháp an cư, nhà ở, quần áo, thuốc chữa bệnh, và các thủ tục pháp lý trong trường hợp ly giáo, cũng được bao gồm trong đó. Tất cả những quy định này đều do Đức Phật ban hành trong những dịp khác nhau và kết thành bộ luật tạngđầy đủ.[2]

Kinh và Luật là Pháp bảo vô giá ở thế gian, có công năng dẫn dắt chúng sanh vượt thoát khổ đau, đạt đếnan lạcgiải thoát.

Thực tế, trong giai đoạn ban đầuđức Phật chưa chế giới luật, do đó những quy định hướng dẫn trong đờisống tu tập theo con đường của ngài thường được dạy ở trong kinh. Do đó, lúc này Giáo pháp và Giới luậtcó chức năng tương ứng với nhau. Theo lý thuyết thì kinh và luật có sự riêng biệt rõ ràng, nhưng ở ngườithực hành chúng tạo nên sự hợp nhất trong vấn đề nuôi dưỡng phát triển và đào luyện tâm trítính cáchnhư nhau: “Giáo pháp và giới luật của Đức Phật Gotami có những phẩm chất mà bạn có thể biết. Những phẩm chất này dẫn đến sự an tịnh, không có niềm đam mê, tham đắm; để được giải thoát và không bị trói buộc; để buông bỏ, xả ly mà không chấp thủ; để khiêm tốn và không tự cao tự đại; để thỏa mãn và không để bất mãn; đưa đến sự ẩn dật và không vướng víu; để kích thích năng lượng tinh tấn và không lười biếng; để được trút bỏ gánh nặng và không nặng nề chất chứa. Bạn chắc chắn có thể thực hành. Đây là Giáo Pháp, đây là Giới luật, đó là những hướng dẫn của Đức Phật”.[3]

Khi tiến hành khảo sát về lời dạy của Đức Phật trong Kinh tạng Nikāya và Luật tạngchúng ta thấy một nguyên tắc bất di bất dịch, đó là sự thống nhất trong lời dạy của đức Phật giữa kinh và luật. Trong lời dạy của kinh có chứa yếu tố giới luật và ngược lại. Thậm chí một vài bài kinh Đức Phật chỉ trình bày về các giới điều, nên gọi đó là Giới kinh (sīlasutta). Chúng ta có thể thấy toàn bộ các bài kệ trong Tỳ Ni Nhật DụngThiết Yếu của Luật tiểu đều được trích từ kinh Hoa Nghiêm, hay những bài kinh đầu trong Trường Bộ đề cập chủ yếu về tiểu giới, trung giới và đại giớiTuy nhiên, những lời dạy về giới trong Kinh tạng không cụ thể như ở Luật tạng, nhưng sự hình thành của giới cho hàng cư sĩ tại gia và xuất gia cũng đã được đề cập đầy đủ. Một số bài kinh hàm chứa nội dung của giới luật, được tìm thấy dưới đây.

Trong kinh Ví Dụ Cái Cưa (Kakacūpama), Trung Bộ 1, kinh số 21, Đức Phật nhớ lại những ngày đầu củaTăng đoàn khi Ngài bắt đầu thiết lập giới luật để ngăn chặn những hành vi bất thiện từ các môn đệ. Tại một gợi ý của các đệ tử, Ngài đã đưa ra một vài lời khuyên như sau: “Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ bất thiện, hãy nỗ lực đối với các thiện pháp, như vậy các Ngươi mới thành tựu sự trưởng thành, hưng thịnh, lớn mạnh trong Pháp và Luật này”.[4] Vụ việc được nói đến trong kinh Ví Dụ Cái Cưa rõ ràng chỉ ra cách thức mà đức Phật trong giai đoạn ban đầu hướng dẫn chư vị Tỷ kheo thực hành theo lời Phật dạy để hoàn thiện đời sống phạm hạnhĐức Phật dường như lúc đầu đã dựa trên sự chân thành và nghiêm túc của chư vị đệ tử, những lời dạy ấy họ luôn áp dụng thành công trong đời sống tu tập. Do đó, những quy định, điều răn như đã được ghi lại trong kinh là vô cùng đơn giản. Nhưng dần dần số người gia nhập Tăng đoànngày càng lên nhanh chóng, đời sống sinh hoạt của Tăng trở nên phức tạp hơn, do đó từ những lời dạyđơn giản như nêu ở trên không còn phù hợp nữa, mà giờ cần phải có những quy định ràng buộc pháp lý được thiết lập, nhằm tránh những vấn đề xảy ra trong tương lai.

Trong giai đoạn ban đầu thành lập Tăng đoàn, việc thọ giới Tỷ kheo chỉ là sự hợp thức hoá bởi chính Đức Phật. Khi Ngài thấy được người đệ tử ấy đã lãnh hội giáo pháp và phát nguyện xuất gia. Chưa có một giới điều nào, chưa có ý niệm gì về sự ràng buộc của quy chế, những lời dạy trên nhằm hướng dẫn các Tỷ kheo thực hạnh đời sống Phạm hạnh nên gọi là “Giới kinh”. Bởi lẽ Giáo pháp chính là giới. Tính chân lýcủa Giáo pháp cùng với năng lực vĩ đại của Đức Phật ảnh hưởng trực tiếp lên tâm trí của một người đã tạo nên tác dụng của giới là đình chỉ các điều ác, thực hành các việc thiện. Nhưng ở những bản kinh khác,chúng ta thấy bắt đầu có sự khuyến tấn của Đức Phật đến chư vị Tỷ kheo phải tuân thủ Giới luật.

Kinh Ước Nguyện (Ᾱkankheyya sutta), Trung Bộ 1, bản kinh số 6, bắt đầu với lời khuyên của đức Phật đối chư vị Tỷ kheo là phải ghi nhớ và tuân thủ giới luật quy định một cách nghiêm túc: “Các Tỷ-kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới”.[5] Như vậy, lúc này chắc chắn hệ thống giới pháp đã được đức Phật thiết lập. Trong khi thuyết giảng giáo pháp, Ngài cũng nhắc và khuyên chư vị Tỷ kheo tuân thủ theo tinh thần giới luật để thành tựu Phạm hạnh.

Trong kinh Ganakamoggllāna và Kinh Điều Ngự Địa (Dantabhumi sutta), Trung Bộ kinhbản kinh 108 và 125, để đối phó với sự phát triển của đời sống tu viện dưới sự hướng dẫn của đấng Đạo sưnhấn mạnhđến sự phát triển đời sống tâm linh của các Tỷ kheo là một quá trình đào tạo dần dần và đang thực hiệntrong từng giai đoạn kế tiếp. Những lời đầu tiên mà đức Phật đề cập đến với các môn đệ của mình, rằng chư vị hãy nỗ lực hướng đến sự hoàn hảo trong các học giới, sự nghiêm trì tịnh giới và kết quả từ pháphành ấy. “Này Bà-la-môn, Thế Tôn, bậc Tri GiảKiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã thi thiết học pháp, đã tuyên bố giới bổn Patimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) cho các Tỷ-kheo. Trong những ngày Bố-tát (Uposatha) chúng tôi cận trú ở chung một thôn điền, tất cả chúng tôi hội họp với nhau tại một chỗ; sau khitụ họpchúng tôi hỏi những gì đã xảy ra cho mỗi một người. Nếu trong khi hỏi nhau như vậy, có Tỷ-kheophạm tộiphạm giớichúng tôi bảo vị ấy làm đúng Pháp, đúng lời dạy. Thật vậy, không phải các Tôn giả xử sự chúng tôichính pháp xử sự chúng tôi”. [6]

Một điều đáng lưu ý ở đây rằng, giới được tìm thấy trong kinh không mang nặng sắc màu như quy địnhtrong luật tạng. Nó chỉ đơn giản là những khuyến khích, khích lệ động viên chư đệ tử nỗ lực từ bỏ pháp bất thiệnthực hành thiện hạnhkiểm soát hành động, lời nói và ý nghĩa theo đúng lời Phật dạy, nhằm phát triển những đức tính thiện lành của vị Tỷ kheo chân chính.

Kinh Bhaddāli Sutta, Trung Bộ 2, bản kinh số 65, chỉ ra sức mạnh về số lượng và sự phổ biến của các thành viên, hoặc các nhóm Tỷ kheo và sự trưởng thành của các thành viên Tăng đoàn trong một thời gianlâu dài về sau sẽ xảy ra một số những nguyên nhân phát sinh lậu hoặc. Đoạn kinh trích dẫn dưới đây cho thấy càng nhiều giới điều được thiết lập ra khi càng nhiều lậu hoặc nảy sinh trong đời sống Tăng đoàn. Chứ không phải có nhiều giới luật được chế định thì lậu hoặc càng được thuyên giảm, như lời thưa bạch của Bhaddāli: “Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, lúc xưa các học giới tuy ít hơn, nhưng các Tỷ-kheo đã ngộ nhập chánh trí nhiều hơn. Bạch Thế Tôn, lại do nhân gì, do duyên gì, ngày nay các học giới nhiều hơn, nhưng các Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn?”[7]

Đức Phật trả lời sự việc này là do, trên thực tế Tăng đoàn ngày càng phát triển nhanh về số lượng, dẫn đến các pháp hữu lậu cũng bắt đầu phát sinh. Thứ nữa là đời sống đạo đức càng ngày càng suy giảm“Này Bhaddali, khi các loài hữu tình bị thối thất, khi diệu pháp bị diệt mất, thời các học giới có nhiều hơn và các vị Tỷ-kheo ngộ nhập chánh trí ít hơn. Này Bhaddali, khi nào một số hữu lậu pháp(Asavatthaniya dhamma) chưa hiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư vẫn không chế định mộthọc giới cho các đệ tử. Và này Bhaddali, ở đây, chỉ khi nào một số hữu lậu pháp hiện khởi trong Tăng chúng, chỉ khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy. Này Bhaddali, ở đây, khi nào Tăng chúng chưa lớn mạnh, khi ấy một số hữu lậu pháp chưa hiện khởi trongTăng chúng. Và này Bhaddali, chỉ khi nào Tăng chúng đã được lớn mạnh, thời ở đây một số hữu lậu pháphiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy. Này Bhaddali, ở đây, khi nào Tăng chúng chưa đạt được quyền lợi tối thượng... chưa đạt đượcdanh xưng tối thượng... chưa đạt được đa văn... chưa đạt được địa vị kỳ cựu, khi ấy một số hữu lậu phápchưa hiện khởi trong Tăng chúng. Và này Bhaddali, ở đây, chỉ khi nào Tăng chúng đã đạt được địa vị kỳ cựu, thời ở đây một số hữu lậu pháp hiện khởi trong Tăng chúng, khi ấy bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử để đối trị lại các pháp hữu lậu ấy.”[8]

Kinh này cũng cho thấy vai trò và vị trí của Giới luật trong đời sống truyền thống quy củ thiền môn. Trong đó tìm thấy được một hệ thống cơ chế Giới luật mang tính pháp lý cao, nhằm tạo điều kiện áp dụng cho đời sống tu sĩ. Tất cả đều dựa trên tinh thần Giới luật để xử lý các vấn đề trong nội bộ Tăng. Các tội danh khinh trọng được quy định rõ ràng, và cách xử lý cũng được đặt ra. Khi hệ thống Giới luật chưa được đức Phật chính thức chế định, nếu có một ai vi phạm lỗi lầm gì, thì khó mà thẩm định tội danh để truy tố và trừng phạt theo thẩm quyền. Do đó, bản kinh giới thiệu và đánh dấu sự ra đời của hệ thống giới pháp (sikkhāpadaáp dụng vào trong đời sống của Tăng. Khi giới và luật được hoàn thiện, nó trở thànhmột công cụ hữu hiệu cho việc thực hiện kỷ luật nghiêm túc trong cộng đồng tu sĩ. Đây là việc áp dụng giới luật trong tu viện Phật giáo nhằm mục đích duy trì kỷ cương và thúc đẩy sự tiến bộ trong đời sống tâm linh của chúng xuất gia đệ tử Phật.

Trong khoảng 13 năm đầu, đức Phật chưa chế định giới pháp nhưng tăng đoàn sống rất thanh tịnhhòa hợp và có sự tiến bộ trong đời sống tâm linh rõ rệt. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn vô sự tăng. Tại thời điểm đó, Đức Thế Tôn đã đề cập Giới dưới hình thức đơn giản, các hình thức chung nhất, với mục đích đểkiểm soát sáu căn, và ba nghiệp tinh khiết với hình thức của một bài kệ, đó là: “Thiện hộ ư khẩu ngôn, tự tịnh kỳ ý chí, thân mạc tác chư ác, thử tam nghiệp đạo tịnh, năng đắc như thị hành, thị đại thiên nhân đạo”.[9] Hoặc trong các hình thức của chánh ngữchánh nghiệp và chánh mạng của Bát Chánh Đạo. Về sau, khi hệ thống giới luật đã được kiện toàn đầy đủ như được ghi lại trong Luật tạng. Lúc này, giới luật có mộtchức năng đặc thù riêng biệt trong việc hướng dẫn chi tiết và cụ thể với mọi hành động của người xuất giacũng như tại giaTuy nhiên, kinh và luật vẫn luôn soi sángyểm trợ nhau không thể tách rời.

Cũng giống như Kinh khi đức Phật thuyết ra đều có đủ Lục chủng chứng tín, thì Luật tạng cũng vậy, khithiết lập đức Phật cũng dựa trên tinh thần tùy phạm tùy chế, chứ không tùy tiện, áp đặt, nhằm tạo niềm tintuyệt đối của chúng đệ tử đối với Thánh giới uẩn, không chỉ trong hiện tại mà còn trong tương lai. Luật tạngquy định khi luận tội một ai đó thì phải có đầy đủ bằng chứng đó là kiến, văn và nghi, tức là đầy đủ ba yếu tố, thấy, nghe và nghi ngờ. Điều này nói lên tính pháp lý rất cao của Luật tạng Phật giáo, không thể luận tộibừa bãi để rồi dẫn đến những sai lầm và gây bất hòa trong Tăng chúng.

Do đó, giữa kinh và luật luôn có một sự thống nhất tương ứng không thể tách rời nhau. Sự thống nhất giữa kinh và luật được Đức Phật nói rõ trong Kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc Trường Bộ kinhLời Phật dạy bao giờ cũng phải phù hợp với kinh, và tương ứng với luật. “Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói: ‘Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư’. Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: ‘Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm’. Và này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: ‘Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh’. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ trì”.[10]

Tóm lại, một người đi theo sự hướng dẫn từ kinh, hoàn hảo trong việc tuân thủ giới luật sẽ giúp vị ấy đạt được các mục tiêu cao thượng của đời sống phạm hạnh, xứng đáng là đệ tử của Như Lai, trên tinh thầnthượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh.

Ghi chú:

[1] Xem, Danh từ Phật học, http://www.dharmasite.net/bdh30/DanhTuPhatHoc-Kinh.html.

[2] Bimala Churn Law, A History of the Pāli Literature, Delhi: Idica Book, 2000, pp.68-69.

[3] The Buddhist Monastic Code I, The Patimokkha Rules, Translated & Explained by Thanissaro Bhikkhu (Geoffrey DeGraff), The Abbot Metta Forest Monastery P.O. Box 1409, Valley Center, CA 92082 U.S.A, 1994, p. 11.

[4] Majhima Nikāya,The Middle Length Discourses of the Buddha, Boston: Wisdom publication, 2009 (fourth ed), p. 219.

[5] Ibid, p. 115.

[6] Ibid, p. 882.

[7] Ibid, p. 548.

[8] Ibid, p. 548.

[9] N. V. Banerjee (trans), The Dhammapāda, verse 183, p.103

 [10] Dīgha Nikaya, The Long Discourses of the Buddha, Boston: Wisdom Publications, 2012, p. 255.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1813)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1565)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1340)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1632)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2151)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1896)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1259)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1439)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1428)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1718)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1479)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1343)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1485)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1425)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1753)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1449)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1410)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1423)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1498)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1684)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1574)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1520)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1391)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1490)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1204)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1968)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1382)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1536)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2900)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1537)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1722)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1585)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2031)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1568)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1769)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1969)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2156)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1635)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2600)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1700)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1882)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1845)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1603)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2352)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1784)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1840)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1706)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2084)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2058)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2194)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant