Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Gợi Ý Hướng Đi Cho Một Nền Giáo Dục Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ

02 Tháng Sáu 201823:38(Xem: 5848)
Vài Gợi Ý Hướng Đi Cho Một Nền Giáo Dục Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ

Tham luận:

Hội thảo Giáo dục Phật giáo Quốc tế

Biên soạn Giáo trình Phật học song ngữ Anh – Việt

Được tổ chức tại Viện Phật Học Bồ Đề Phật Quốc

Từ ngày 7 đến 10/6/2018

 

Đề tài

Vài Gợi Ý Hướng Đi Cho Một Nền Giáo Dục PGVN Tại Hoa Kỳ

Diễn giả: Thích Hạnh Tuệ

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Kính bạch Chư Tôn Đức,

Kính thưa quý Đại biểu và quý Phật tử,

 

Hôm nay, trong chương trình Hội thảo Giáo dục Phật giáo quốc tế - Biên soạn giáo trình Phật học song ngữ Anh – Việt được tổ chức tại Viện Phật Học Bồ Đề Phật Quốc, California, Hoa Kỳ từ ngày 7 đến 10 tháng 6 năm 2018, chúng con/tôi xin đóng góp vài gợi ý hướng đi cho một nền giáo dục Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.

Kính bạch quý ngài, kính thưa quý liệt vị,

Giáo dục là nền tảng để phát triển con ngườixã hội. Bất cứ thời gian nào, quốc độ nào cũng cần có định hướng cho việc giáo dục. Con người nhờ sự giáo dục mà biết sống hợp với tự nhiên và thời thế. Đã hơn 40 năm qua, kể từ tháng 4 năm 1975 đến nay, người Việt đã đến các quốc gia tự do để tị nạn chính trị, đoàn tụ gia đình, hay với những lý do khác nữa ngày một đông đảo. Trong dòng người đó, họ đã mang theo tất cả những giá trị của mình tại bổn quốc để kiến tạoduy trì ở nơi cư trú mới. Một trong những giá trị ấy là nền văn hoá tâm linh, những tín ngưỡng, phong tục, tập quán, nơi họ được sinh ra và lớn lên. Tuy nhiên, sự giao thoa và xung đột giữa bản chất của 2 nền văn hoá phương Đông – nông nghiệp, cộng đồng và nền văn hoá phương Tây – công nghiệp, cá nhân đã làm cho thế hệ đầu tiên lưu trú không ít khó khăn để thích nghi và tiếp biến. Giữ gìn những cái cũ truyền thống để không bị mất gốc và hội nhập vào cái mới để không bị lẻ loi là cả một thách thức lớn.


Ngày nay, riêng tại đất nước Hoa Kỳ đã có trên 500 ngôi chùa Việt lớn nhỏ, ở hầu hết các tiểu bang nhưng tập trung nhiều nhất tại miền Nam và Bắc của California, nơi có người Việt đông đảo nhất. Bằng sự nỗ lực của tự thân, quý Chư Tôn Đức và Phật tử quản trị các tự viện cũng đã tổ chức những lớp học giáo lý, tổ chức các khoá tu học Phật pháp hay mở lớp học tiếng Việt, thành lập Gia Đình Phật tử v.v… để giữ gìn, truyền lưu nền văn hoá ngàn đời của dân tộc và duy trì sự sinh hoạt của tự viện. Tuy nhiên, tất cả sự nỗ lực đó, cũng chỉ dừng lại ở tầm vóc tự phát của một ngôi chùa, phục vụ cho một cộng đồng nhỏ hay một đạo tràng mà chưa có một định hướng mang tầm vóc lớn hơn, phổ quát hơn. Nay trong hội thảo về giáo dục này, chúng con/tôi xin được góp vài gợi ý thô thiển để góp phần khai mở một hướng đi cho con đường giáo dục Phật giáo tại đất nước Hoa Kỳ này. 

1.    Đối tượng tiếp cận

Văn hoá truyền thống của những người Phật tử, thế hệ đầu tiên đến Hoa Kỳ vốn là những người có niềm tin sâu sắc với Phật giáo. Họ đã biết tin sâu nhân quả, tội phước, bố thí, cúng dường, tích tụ công đức.v.v… Nói chung, với đối tượng này không phải là đối tượng chính được hướng đến ở đây mà những người thuộc thế hệ con cháu của họ, sinh ra hoặc lớn lên trên mảnh đất này. Thế hệ đó sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính để giao tiếp và lao động. Tiếng Việt chỉ còn là thứ yếu, chỉ dùng trong gia đình khi giao tiếp với thế hệ lớn hơn. 

a. Xác định đối tượng như thế để xây dựng một khung giáo trình phù hợp với lứa tuổi, giới tính và yêu cầu của họ là cần thiết

b. Những người sinh ra và lớn lên tại Việt Nam nhưng làm việc tại Hoa Kỳ. Những người này thông thạo cả 2 ngôn ngữ nên cũng là đối tượng hướng đến.

c. Đa phần thế hệ thứ 2, thứ 3 này đã phần nhiều không có niềm tin tôn giáo như cha mẹ của họ. Tất thảy những giá trị về Phật học và văn hoá Phật giáo cũng như văn hoá dân tộc phải được hướng dẫn thì họ mới có thể biết mà giữ gìn và phát huy được.

 

2.    Mục đích

Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên đó chính là “khai thị chúng sanh, ngộ nhập Phật tri kiến.” Khai - Thị - Ngộ - Nhập chúng nhân là mục đích mà các ngài thị hiện vào đời. Vì vậy, mục đích của con đường giáo dục Phật giáo cũng không ngoài lí do ấy và góp phần cho những con ngườiý định thực thi Bồ tát hạnh được dấn thân mà phục vụ cho nhân quần xã hội.

a. Đem giáo lý giải thoát của Phật đến với mọi người hữu duyên để chuyển hoá khổ đau trong cuộc sống nội tại mà con người đang gặp phải.

b. Củng cố niềm tin vào Phật pháp cho những người có truyền thống Phật giáo trong gia đình nhưng bị cải đạo theo diện vợ chồng hoặc vì đời sống như là vì nhà thờ bảo lãnh rồi theo Đạo Chúa v.v…

c. Cần duy trì sinh hoạt văn hoá truyền thống dân tộc một cách nhuần nhuyễn để không bị mất gốc.

d. Tiếp thu và thay đổi những tư tưởng của xã hội này để lồng vào đó tư tưởng của Phật giáo nhằm làm cho người mới tiếp cận Đạo Phật mà không vị dị ứng. Cần tạo nên một vùng đệm giữa văn hoá Phật giáo và văn hoá đời thường mà họ đã quen thuộc.

e. Khuyến khích sự dấn thân để xây dựng gia đìnhxã hội trên tinh thần yêu thương sự sống và hoà bình cho nhân loại.

 

3.   Nội dung giáo trình

Nội dung của sự giáo dục Phật giáo được thể hiện cụ thể qua giáo trình. Giáo trình được biên soạn theo mục đích và chiều hướng nào thì người tiếp cận sẽ nghiêng theo mục đích và chiều hướng đó. Vì vậy, cần có những người am hiểu nhiều lĩnh vực và có tâm đạo phụng hiến cũng như am hiểu sâu sắc Phật học mới có thể biên soạn được. 

a. Cấp độ của giáo trình được phân chia từ thấp lên cao để phù hợp với lứa tuổi và độ khó của nội dung Phật học.

b. Thể hiện được tính thực dụng trong nội dung học Phật pháp. Người học có thể ứng dụng ngay vào cuộc sống để thấy được sự lợi lạc. Đây cũng là điều là mà đối tượng đã huân tập trong môi trường sống, đó là chủ nghĩa cá nhân thực dụng.

c. Pháp hành được đề cao để giúp người học tiếp cận mà chuyển hoá tự thân.

d. Nội dung giáo trình cần tránh tối đa sự phân hoá, chia rẻ liên quan đến các hệ thống tổ chức như: chính trị, xã hội, đảng phái, tông môn pháp phái.v.v…

 

4.   Lợi ích của người tham gia

Lợi ích bao giờ cũng là yếu tố cốt cõi của bất kỳ một sự tham gia nào. Nếu người tham gia học hành không thấy được lợi ích của họ thì họ sẽ bỏ cuộc không sớm thì muộn. Vậy những người tạo ra chương trình cần phải đặt lên trên tất cả đó là lợi ích của người tham gia theo học. Khi người tham gia thấy được lợi ích của mình thiết thực thì họ sẽ tự nguyện theo học.

a. Rốt ráo sau cùng của giá trị giáo dục Phật giáoxây dựng một con người có đủ yếu tố để vượt thoát khổ đau ngay đời này và vô tận kiếp tái sinh cho đến cuối cùng đạt thành quả vị Phật.

b. Chú ý đến đầu ra của chương trình đào tạo. Người tham gia học xong một khoá nào đó có thể sử dụng bằng cấp, hay tín chỉ kết thúc khóa đã học này cho việc gì. Điều này yêu cầu hệ thống trường lớp phải đi thẳng được vào hệ thống giáo dục của tiểu bang hay quốc gia sở tại để có thể hợp thức hoá được giá trị của chương trình đạo tạo. (Đó là vấn đề lý tưởng.)

c. Lợi ích của người tham gia này có được công nhận rộng rãi đến mức độ nào.

 

5.    Môi trường học tập

Ngày xưa, mẹ của Mạnh Tử đã ba lần dọn nhà để tránh cho con gặp môi trường xấu mà bị ảnh hưởng. Như vậy: “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” hay “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là điều cần được coi trọng trong khâu tổ chức trường trại. 

a. Cơ sở vật chất từ bàn ghế đến những phương tiện giảng dạy cần phải đủ độ hấp dẫn người học. Tổ chức trường học mà quá thô sơ trên đất nước này thì sẽ không phù hợp với những con người ở đây. Vì trên căn bản, những người trong xã hội văn minh đây đã sở hữu nền vật chất tương đối khá.

b. Đầy đủ giáo trình cho các môn học.

c. Không gian sinh hoạt khác như: Thư viện, phòng ăn, phòng sinh hoạt nhóm.v.v… cho đến các khâu vệ sinh cũng được chú ý đầu tư.

d. Phòng học cần trang trí như thế nào để thể hiện tinh thần Phật pháp và những yếu tố khác như: ánh sánh, nhiệt độ, tiếng ồn.v.v… cũng ảnh hưởng đến sự truyền dạy của giáo thọtiếp nhận của học viên.

 

Trên đây là đôi điều đóng góp cho hội thảo hôm nay. Tất nhiên, những điều này mang tính chất hết sức chủ quan của bản thân chúng con/tôi nhưng tất cả không ngoài một tấm lòng chung tay cho Phật pháp hôm nay và mai sau.

Kính mong Chư Tôn Đức, quý Đại biểu và quý Phật tử thức giả hoan hỷ và góp ý cho.

Kính chúc quý ngài và chư liệt vị gặt hái được nhiều thành tựu trong những ngày hội thảo.

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát

San Diego, ngày 17 tháng 5 năm 2018

Thích Hạnh Tuệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2477)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2297)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2616)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2388)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3196)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2267)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2358)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2485)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2436)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2492)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2150)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2515)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3001)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2607)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2651)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2923)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2504)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2541)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3998)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2750)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2995)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3272)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2260)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2474)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2760)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2953)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2828)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2584)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2592)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3154)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2564)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2245)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2353)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2456)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2557)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2645)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2689)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3215)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2521)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2104)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2556)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2020)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2780)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2863)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2890)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2678)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2463)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2748)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2324)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3247)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant