Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tập Hạnh Buông Bỏ

20 Tháng Sáu 201804:46(Xem: 8148)
Tập Hạnh Buông Bỏ
Tập Hạnh Buông Bỏ 

Thích Nữ
 Liên Trí


Tập Hạnh Buông Bỏ


Ngày Phật đản, ngày lễ hội văn hóa tâm linh của cả thế giới, là dịp để chúng ta hướng về Đức Phật với niềm tôn kính vô hạn và tri ân sâu xa với những gì Ngài để lại cho đời. Mỗi người con Phật có cách riêng của mình để tưởng niệm bậc Đạo sư nhân ngày lễ trọng đại này. Bản thânngười viết cảm nhận sự tri ân thiết thực nhất là học theo các hạnh lành của Đức Từ phụ để noi theo gương Ngài, soi lại tâm mình để nỗ lực thực hành trên con đường chuyển hóa khổ đau cho tự thân. Một trong những hạnh lành đáng quý nhất, đáng kính ngưỡng nhất nơi Ngài là sự buông bỏ. Ngài thành tựu Vô thượng Chánh đẳng chánh giác và lập nên một con đường sáng cho nhân loạitheo đó sống bình an và hạnh phúc cũng nhờ hạnh buông bỏ cao quý này. 

Sự từ bỏ vĩ đại của Đức Phật 

Ra đi, Thái tử Siddhartha từ bỏ tất cả: phụ vương, ngai vàng, vợ con, cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc tột đỉnh của thế gian dành cho một hoàng tử. Đây không phải là sự từ bỏ của một người cóđiều kiện sống tồi tàn dưới ngưỡng sống, chẳng hạn như già cả, đau ốm, nghèo khó, bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự ra đi của Thái tử là sự hy sinh từ bỏ của một vị hoàng tử đang ở vị trícao tột bựctuổi thanh xuân, đang sống trong sự yêu thương của hoàng thân quốc thích, cung vàng điện ngọc với tương lai huy hoàng của danh vọng và quyền lực, để chọn cuộc sống thanh bần, không nhà cửa vợ con, không của tiền danh vị. Chính vì nhận chân được sự tạm bợ, mong manh của những hạnh phúc đời thường, Ngài đã quyết chí ra đi, buông bỏ tất cả những hạnh phúccó tính giới hạn ở thế gian để có được hạnh phúc vô hạn của giải thoát. Đây quả thật là một sự từ bỏ, sự hy sinh vô cùng vĩ đại, duy nhất trong lịch sử loài người


Sau khi rời khỏi hoàng cung dấn thân vào con đường tìm cầu chân lýthái tử tiếp tục thực hànhhạnh từ bỏ. Khi đến thọ giáo với hai vị đạo sư danh tiếng nhất thời ấy là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta, Thái tử nhanh chóng chứng đạt các cấp thiền ngang với thầy mình. Thái tử nhận thấycác cấp thiền mà Ngài chứng được chưa phải là chân lý tối hậu, Niết-bàn, chấm dứt sanh tử và mọi khổ đau, nên Ngài ra đi, dù cho hai đạo sư tha thiết mời ở lại cùng với họ lãnh đạo chúng đệ tửTừ bỏ sự sủng ái của những vị thầy danh tiếng thời bấy giờ, từ chối vị trí lãnh đạo đồ chúng là một sựtừ bỏ không dễ dàng với nhiều người, nhưng Ngài từ bỏ dễ dàng. So với sự từ bỏ cả tương lai thếgian đầy vinh hoa phú quý và quyền lực kia có thấm gì đâu, Ngài lại lên đường tiếp tục cuộc hành trình cầu đạo của mình. 

Rời hai vị thầy, Thái tử ngày nào đã trở thành một đạo sĩ thực hành phương pháp phổ biến như bao đạo sĩ ở Ấn Độ thời bấy giờ: khổ hạnh đủ các kiểu. Thái tử cùng với 5 người bạn đồng tu trong 6 năm ròng rã, kiên trì khổ hạnh ép xác tới mức con người Thái tử gầy khô như bộ xương, đôi mắt sâu hoắm xuống, sức khỏe giảm sút đến nỗi Ngài không còn đi vững được nữa. Ngài nghiệm thấy, càng kiên trì khổ hạnh, càng xa rời chân lý tối hậutâm trí càng mê mờ, thân thể càng suy yếu. Ngài mạnh dạn từ bỏ cách tu mà cả xã hội tôn vinh, Ngài đã dành ra ngót 6 năm để theo đuổi thực hành một cách nghiêm ngặt, mặc cho những người bạn đồng tu thất vọng, chê bai và từ bỏ Ngài. Đây là một sự từ bỏ kiến chấp không hề dễ dàng, nhưng Ngài đã làm được. 

Với sự nỗ lực cá nhân kiên trì không mệt mỏi, Ngài đã thành tựu đạo quả giác ngộ giải thoát,chứng nghiệm hạnh phúc tối thượng. Thế nhưng, một lần nữa, Ngài từ bỏ sự hưởng thụ quả vị giác ngộ một mình, chọn con đường độ sanh đầy gian khổ, sống đời hành khất, không sở hữu gì cả, ngoài y vải cũ sờn và bình bát đất khất thực nuôi mạng sống qua ngày. Không mệt mỏi trên bướcchân độ sanh, ngày đi, đêm nghỉ, miệt mài hành trình soi sáng khai tâm bao người trôi lăn giữa biển trần đưa lên thuyền giác, Ngài tận tụy trên con đường từ bỏ vĩ đại ấy cho đến khi cỗ xe tứ đại mòn mỏi và dừng nghỉ ở tuổi 80. 

Nếu ở vào vị trí của Ngài, thật khó để chúng ta có thể từ bỏ được. Đúng là sự từ bỏ vĩ đại của mộtcon người vĩ đại, để khai sinh ra một đạo Phật giải thoátgiác ngộ hiện hữu trên cõi đời này, để lại cho nhân loại gia tài vô giá là trí tuệ và từ bi mà những người con Phật như chúng ta đời đời đượcthừa hưởng

Tại sao cần buông bỏ? 

Tại sao phải buông bỏ? Kinh nghiệm bản thân sẽ dạy cho chúng ta bài học cuộc sống: nhất thiếtmình phải buông bỏ vì không thể kham nổi khối khổ đau đang đè nặngbức báchNếu không làm vậy, đau khổ chất chồng, bóp nghẹt con tim. Buông bỏ là nhân đưa đến quả hạnh phúc, mà hạnh phúc là điều ai cũng có thể dành trọn đời để hướng đến và tìm cầu. Đức Phật đã dùng vô số cách để nhắc nhở chúng đệ tử của Ngài rằng, nguyên nhân của khổ đau là tham ái, và từ bỏ tham đắmdục lạc là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc tối thượng. Ngài là người tiên phong đã thành công, là người mở đường khi đặt gánh nặng sanh tử xuống, mở toang cánh cửa Niết-bàn bằng sự từ bỏvĩ đại ấy. Đây là con đường duy nhất để giải thoátgiác ngộ vậy. 


Khi hiểu buông bỏ là việc cần thiết để thong dong tự tại không chướng ngạichúng ta cần thực hành sự buông bỏ để xa lìa khổ đau, thoát ly sanh tử luân hồi, ngay bây giờ và ở đây, không nêntrì hoãnNếu không thực hành lúc này, thì không còn lúc nào khác để tập hạnh buông bỏ, bởi lẽ cuộc sống quá vô thường và ngắn ngủi, ngày mai không bao giờ đến. Sự sống gom vào trong mộthơi thở mong manh, một hơi thở ra mà không thở vào là chuyển sang kiếp khác. Do vậy, tại saocon người chúng ta khi tồn tại trong một hơi thở như vậy lại cứ phung phí thời gian quý báu, vùi tâm mình trong sầu não, lẩn quẩn trong “u mê” và phiền não mà không chịu từ bỏ? 

Buông bỏ những gì? 

Trong giáo lý Tứ diệu đếĐức Phật khẳng định rằng, buông bỏ là ý muốn được tự dothoát khỏitình trạng bất toại nguyện và khổ đau lặp lại và kéo dài theo cuộc sống của một chúng sanh.Buông bỏ không có nghĩa là chúng ta chối từ hạnh phúc, mà là từ bỏ khổ đau và những nguyên nhân của nó mà Đức Phật đã chỉ rõ trong phần “Tập đế”. Sự buông bỏ lớn nhất, toàn triệt nhất mà trong kinh Nguyên thủy thường mô tả là “Các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sửchánh trí giải thoát.” Mục đích rốt ráo của người tu tập là buông bỏ phiền não nhiễm ô ở mức vi tế nhất, thanh tịnh hoàn toànđạt đến tâm giải thoáttuệ giải thoátan lạc hạnh phúc tối thượngĐức Phật và các bậc Thánh đệ tử của Ngài đã thành tựu sự buông bỏ hoàn toàn như vậy. Với tuệ giác và tâm từcủa một bậc Đại Giác ngộ, Đức Phật đã thiết lập vô số pháp môn tu tập hạnh buông bỏ dành cho nhiều đối tượng khác nhau để tất cả đều được an lạchạnh phúc trong giáo pháp của Ngài. 


Sống ở đời, do vô minh bao phủ, chúng ta thường chấp trước vào các ý niệmphổ biến nhất là cho rằng các pháp hữu vi có tính chất thường còn, thân người khỏe hoài không bệnh, trẻ mãi không già, của cải tài sản chúng ta đang sở hữu là bền vững không hư hoại... Cho đến một ngày, mọi thứ không như mơ, chúng ta đau khổ đến cùng tột. Khi không đạt được những điều mong muốn, tất cả mọi hình thái của khổ đau như buồn phiềnmệt mỏicăng thẳnghoài nghiđau đớn, sân giận, phiền não… đều có mặt, chế ngự tâm chúng ta. Đây là lúc cần phải buông bỏ tất cả những tâm lýtiêu cực này để có hạnh phúc. Tâm trạng nhẹ nhàng, thanh thản liền có mặt khi đặt gánh nặng khổ đau xuống, và đây là cách đổi bất an để lấy hạnh phúc khi biết buông bỏ những sự cố, những bất hạnh mà mình không hề mong muốn càng sớm càng tốt. Ngay khi buông bỏhạnh phúc liền có mặt, như khi vừa đặt gánh nặng đang oằn trên vai xuống, chúng ta liền có cảm giác nhẹ nhàng, khỏe khoắn ngay lập tức

Để có thể dễ dàng buông bỏ, môi trường sống góp phần hỗ trợ đắc lực. Theo Đức Phật, sống đờixuất gia thanh bầnđơn giản với những nhu cầu tối thiểu của đời sống vật chấtthoát ly đời sốnggia đình nhiều ràng buộc, lắm trách nhiệm và vô vàn cám dỗ là chọn môi trường tốt nhất để tập hạnh buông bỏTừ bỏ đời sống gia đình, làm người xuất gia giải thoát là một việc khó làm, nên ai làm được, Đức Phật thường dành lời khen ngợi, như được ghi lại rất nhiều lần trong các bài kinhthuộc hệ Nikāya rằng: “Đời sống gia đình đầy những triền phượccon đường đầy những bụi đời.Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất giatừ bỏ gia đình, sống không gia đình”. 

Thật vậy, chỉ khi nào nới rộng sợi dây thương yêu ra khỏi phạm vi nhỏ hẹp, chật chội của gia đình, người thân, chúng ta mới có nhiều cơ hội để thực hành hạnh buông bỏ. Bởi lẽ còn trong nhà thế tục thì phiền não còn vây khốn chung quanh, không dễ gì gỡ được để sống tự tại không dính mắc.Từ bỏ thân bằng quyến thuộc, phố thị phồn hoatiện nghi vật chất đời thường, sống đời đạm bạc“ba y một bát tùy thân, ngoài ta chẳng bận mảy trần trong tâm”thong dong cảnh tịnh, lấy trời làm màn, đất làm chiếu, bá tánh là quyến thuộc chung thì mới mong tập hạnh buông bỏ được. 
Tuy nhiên, nếu chưa đủ duyên xuất gia thì vẫn có thể tập buông bỏ dần dần, nới lỏng sợi dây ràng buộc để phiền nãobức bách bớt siết chặt lấy tâm chúng ta hơn, để có thể thảnh thơi hơn trong cuộc sống này. 

Buông bỏ thật ra là một sự thay thế 

Buông bỏ là dừng lại và làm cho rơi rụng đi những ham muốn đời thường, những thứ đem lại niềm vui nhất thời nhưng tiềm ẩn nhiều đau khổ thống thiết và triền miên, dài dặc lắm khi dài hơn cả kiếp sống con ngườiTuy nhiên, nhiều người đang nắm giữ những hạnh phúc mong manh tạm bợ không dám buông bỏ, bởi lẽ họ sợ trạng thái trống không, sụp đổ sau khi buông. Thật ra, nói làbuông bỏ, nhưng thực chất đây là một sự thay thế và hoán đổi, nên ai trong chúng ta cũng có thể làm được tùy vào khả năng mỗi người, chọn món nào đưa đi để đổi lấy món nào đem về. Với những người có trí tuệ nhìn xa thấy rộng, hiểu được giá trị đích thực của cái được sau khi buông, họ sẽ chấp nhận buông cái ít giá trị để được cái nhiều giá trị hơn. Chúng ta không thể kêu một người ăn mày cam tâm cho con số tiền đang nắm chặt trong tay họ, cũng không thể nào đưa một nắm sỏi bảo họ đổi nắm tiền đang giữ trong tay. Thế nhưng, nếu dùng vàng là món có giá trị hơn để đổi thì họ vui lòng đổi ngay không cần suy nghĩVì vậythực chất của việc buông bỏ là hoán đổi. 

Tùy vào căn cơduyên nghiệptrí tuệ và mức độ cảm quan cuộc sống của mỗi cá nhân mà nhiều người nhận thức khác nhau về cùng một đối tượng nên cái gọi là “giá trị” đối với mỗi người mỗi khác. Có thứ người này ghê sợ nhưng người khác lại thèm thuồng, có nơi là chỗ ở lý tưởng của người này lại là ác mộng của người kia. Dưới lăng kính Phật pháp, sự hoán đổi khôn ngoan là bỏ đi cái ác để chọn lấy cái thiện, bỏ đi đau khổ để đổi lấy bình yên, bỏ đi hại họa để tìm về an lành. Lấy tuyên ngôn Chánh pháp được ghi nhận ở câu Pháp cú số 183 “Không làm các điều ác, làm các điều lành, giữ tâm ý thanh tịnh” làm tiêu chuẩn để chọn cái thay thế và hoán đổi, chúng ta sẽ tập hạnh buông xả một cách thiết thực và có hiệu quả

Đơn giản và cụ thể thế này, người tu học Phật chọn dùng thức ăn chay thay cho thức ăn mặn, có nghĩa là người ấy buông bỏ được con dao mổ; dùng bố thí thay cho trộm cướp, người ấy sẽ buông bỏ được lòng tham; dùng trí tuệ thay cho ngu dốt, người ấy sẽ buông bỏ được cố chấp; dùngchánh niệm thay cho tạp niệm, người ấy sẽ buông bỏ được lăng xăng, ngông cuồng; dùng nhẫn nhục thay cho báo thù, người ấy sẽ buông bỏ được sân hận; dùng yêu thương thay cho trả thù, người ấy sẽ buông bỏ được hiềm hận. Như vậy, muốn hạnh phúc, không phải là buông bỏ, mà làsử dụng phương pháp thế, như Đức Phật đã từng giới thiệu trong một bài kinh rằng, dùng một tâm thiện đánh bật một tâm ác ra khỏi tâm, ví như dùng một chiếc nêm để đánh bật một chiếc nêm khác (Trung bộ kinh số 19: Kinh Song tầm). 

Điều này cho tất cả chúng ta một niềm tin và động lực rằng, ai cũng có thể tập hạnh buông bỏ, để làm mới, để thay thế, bỏ đi những cái ít giá trị hơn và đem về cái nhiều giá trị hơn. Những ai khôn ngoan biết bỏ niềm vui tạm bợ, chọn đời sống phạm hạnh chân chánh là thực hành hạnh buông bỏ, để giã từ phiền não, chào đón hạnh phúc là đổi kẹo lấy vàng vậy (theo cách nói của Tỳ-kheo Thanissaro). Như một quy luật, sự thay thế này là một quá trình, diễn ra tuần tự từ thô đến tế xuyên suốt thời gian nỗ lực và kiên trì của người thực hành vậy. 

Khi nào mới chịu buông bỏ? 

Vẫn biết buông bỏ là điều cần làm để có hạnh phúc và an lạctuy nhiên, khi vô minh che lấp, sự hấp dẫn của các pháp trần khơi dậy tâm ham muốn và chúng ta cứ ngỡ thỏa mãn những gì mình muốn là hạnh phúc có mặt. Chỉ khi nào có tuệ giác ở mức độ nhất địnhchúng ta mới có thể buông bỏ hạnh phúc phù du thoáng qua để chọn thứ hạnh phúc lâu dài và trọn vẹn. Như vậy, trí tuệ là nền tảng căn bản cho mọi sự buông bỏ, vì chỉ ánh sáng trí tuệ mới có đủ sức soi thấu để chúng tathấy rõ những ham muốn tầm thường có phần ngọn thì ngọt mà phần gốc thì đắng để sớm buông bỏ trước khi quá muộn màng


Cùng với tuệ giác, trực tiếp chạm mặt khổ đau để rồi xuyên qua khổ đau, chạm tận cùng của nỗi khổ niềm đau ấy, người ta mới có thể buông bỏ. Do đó, tập hạnh buông bỏ đối với người chưa từng trải nghiệm đau khổ, nhất là ở những người trẻ, là một điều không dễ, bởi lẽ con đường họ đang đi thỏa hiệp với con đường của sự ham muốn dục lạc và có vẻ mọi thứ đang tốt đẹp. Nhữngham muốn như ăn ngon, mặc đẹp, có nhiều tiền, được khen ngợi, thỏa mãn những sắc dục là điều rất tự nhiên trong con người của chúng ta và đời toàn màu hồng khi thứ hạnh phúc “ngoài da”mong manh kia chưa bong tróc để hiển lộ một sự thật trần trụi. Cho đến khi nào, lớp áo hạnh phúcmong manh bao phủ những ham muốn này rách đi, người ta cảm nhận khổ đau đến cùng tột là lúcbản chất thật của ham muốn ngũ dục được phô bày, họ mới chịu buông. 

Như vậy, không luận hành giả ở độ tuổi nào, tu tập hình thức nào, chỉ khi nào chánh niệm tỉnh giácđể thấy rõ sự ham muốnchấp trước là nguyên nhân gây ra đau khổ thì người ấy mới có thể buông bỏ. Lúc này, trí tuệ quán chiếu, sự trải nghiệm bản thân, kể cả sự vấp váp thất bại đều cần thiếtcho sự buông bỏ. Khi có tuệ giác và trải nghiệm thực tế đủ lớn để nhận ra bản chất thật sự của những đau khổ, nhiêu khê, vướng mắctrần lụy khi theo đuổi những đối tượng của dục vọng, thì người ấy sẽ đi đến quyết định buông bỏ

Thay lời kết: càng buông bỏ, càng hạnh phúc 

Thiền sư Ajahn Chah từng chia sẻ từ sự trải nghiệm thực hành hạnh buông bỏ trong một bài giảng rằng: “Người nào buông bỏ ít, bình an ít, buông bỏ nhiều, bình an nhiều, buông bỏ hoàn toànbình an hoàn toàn.” Điều này truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta rằng tất cả đều có thể thực hànhhạnh buông bỏ tùy theo khả năng và nghiệp duyên của mỗi người. Nếu chưa thể buông bỏ hoàn toàn thì vẫn có thể làm vơi nhẹ dần những phiền nãohạn chế dần những ham muốn đời thường và an lạchạnh phúc theo đó cũng lớn dần theo mức độ gia công và nỗ lực của hành giả


Để giúp cho chúng đệ tử dễ dàng hơn trong việc chế ngự tâm, thực hành hạnh buông bỏĐức Phật chế định ra hệ thống giới luậtquy định những điều không nên làm để giảm thiểu tối đa nhữngham muốn mang mầm đau khổ, giúp người thực hành sống trong ranh giới an toàn của đời sốngthiểu dục tri túc thánh thiệnan lạc và hạnh phúcHệ thống giới luật của người xuất gia giúp chohành giả buông bỏ hoàn toàn để có hạnh phúc trọn vẹn. Trong khi đó, giới luật dành cho người cư sĩ tại gia đặt nền tảng trên 5 giới là một cẩm nang quý báu để hỗ trợ cho người thực hành hạn chếham muốnbuông bỏ dần dần trên con đường chuyển hóa khổ đau, mà vẫn còn đang đi trên con đường của sự ham muốn

Điều này có nghĩa là ai ai cũng có thể nương vào cẩm nang Đức Phật để lại cho đời để thực hànhhạnh buông bỏĐơn giản là bạn cứ hưởng thụ hạnh phúc theo kiểu của bạn, cho đến khi sự hưởng thụ ấy đem lại cho bạn chướng ngại và khổ đau thì hãy đem cẩm nang quý báu của Đức Phật dành tặng cho những người có đủ tuệ giác để sợ hãi khổ đau ra mà áp dụng. Với tuệ giác ở mức tối thiểu đó, cùng kinh nghiệm khổ đau vừa trải qua, bạn có thể bắt đầu thực tập sự buông bỏ; sự thực hành lúc này là cần thiết vì bạn không muốn phải chịu đựng khổ đau thêm nữa. Chỉ từ trong đau khổ ngoi lên, chúng ta mới tha thiết thực hành hạnh buông bỏ để thoát ly đau khổ. Do đó, càng đau khổchúng ta càng thấy giá trị của các giới điều như một bảo vật cho chúng ta trong quá trình trị liệu và chuyển hóa khổ đau. Đây là cách thừa hưởng tối ưu gia tài Chánh pháp màĐức Phật đã dày công gầy dựng và để lại cho đời. 

Thực hành hạnh buông bỏ giữa những cám dỗ vật chất đang bủa giăng rình rập với nhiều hình thức hấp dẫn khác nhau là noi theo gương hạnh từ bỏ vĩ đại của Đức Phật, là hành động có ý nghĩa thiết thực nhất để chúng ta tưởng niệm Đức Từ phụ Bổn Sư nhân ngày lễ Đản sanh của Ngài. Những ai đang thao thức với con đường giải thoát giác ngộ, tìm cầu an lạc, giải thoát thật sự thì hãy thực hành hạnh buông bỏ - buông bỏ từng phần, buông bỏ dần dần cho đến lúc có thểbuông bỏ hoàn toàn để có được hạnh phúc trọn vẹn và tối thượng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1657)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1649)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1823)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1832)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1514)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1674)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2012)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1761)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2321)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1655)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1664)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1618)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2073)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1892)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2031)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1581)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2188)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1549)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1807)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1697)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1760)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1593)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2346)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2059)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2011)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1822)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2160)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1729)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1852)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2079)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1609)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1876)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1869)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2093)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1859)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1707)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1688)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1694)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1806)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2100)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1662)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1637)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2190)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1902)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1709)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2279)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1898)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1988)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2182)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2464)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant