Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp GiớiPháp Giới Thể Tánh

07 Tháng Chín 201807:58(Xem: 7168)
Pháp Giới Và Pháp Giới Thể Tánh

Pháp GiớiPháp Giới Thể Tánh 

Nguyễn Thế Đăng

Pháp Giới Và Pháp Giới Thể Tánh


“Đức Phật dạy: Ông nên nói về nhân duyên pháp giới thể tánhTrong phần mở đầu của Pháp hội Pháp giới Thể tánh vô phân biệt, kinh Đại Bảo Tích do pháp sư Mạn-đà-la đời Lương dịch, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi thuyết pháp:


Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả các pháp giới là pháp giới thể tánh. Ngoài pháp giớikhông có cái gì để được nghe. Vì sao Đức Thế Tônbảo nhân nơi pháp giới mà nói về pháp? 

Đức Phật nói: Này Văn-thù-sư-lợi! Chúng sanh kiêu mạn nếu nghe pháp này sẽ sanh lòng kinh quái. 

Ngài Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Pháp giới thể tánh không có kinh quái. Sự kinh quái ấy tức là pháp giới thể tánh”. Pháp giới là vũ trụ, gồm cả vô tình và hữu tìnhPháp giới thể tánh là thể tánh của vũ trụ. Lời thuyết pháp đầu tiên của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là “Tất cả các pháp giới là pháp giới thể tánh”.

Tất cả các vũ trụ, tất cả những gì hiện hữusắc thanh hương vị xúc pháp, mắt tai mũi lưỡi thân ý, tất cả không gian thời gian là thể tánh của pháp giới. Nói cách khác, tất cả các hiện tượng đều làbản thể, tất cả mọi tướng xuất hiện đều là thể tánh.

Không có một cái nghe, cái thấy, cái hiểu, cái xúc chạm nào có thể ở ngoài pháp giới, nghĩa là ở ngoài pháp giới thể tánh. Tất cả các tướng đều là tánh, tất cả các pháp đều là “pháp giới tánh” (chữ của kinh). Đây là cái thấy trực tiếp của một vị Đại Bồ-tát. Nhưng khi nói ra sự thật này, những người còn chìm đắm không thể không kinh quái. Sở dĩ kinh quái vì chúng ta đã ở quá lâu trong một thế giới phân biệt, các sự vật tách lìa nhau, chống trái nhau vì sự cứng đặc nặng nề của chúng. Đây là do cái thấy lầm tất cả có bản chất riêng, bản tánh riêng, tự tánh riêng. Sống quen trong thế giới của sự khác biệt do vọng tưởng như vậy nên khi nói tất cả là pháp giới thể tánh, nghĩa là tất cả là một thể tánh, và thể tánh ấy là vô phân biệt, thì người bình thường kinh sợ, quái lạ.

Đức Phật nói, “Chúng sanh kiêu mạn nếu nghe pháp này sẽ sanh lòng kinh quái”. Chúng sanh kiêu mạn là do không biết nên vô tình vọng tưởng ra một cái tôi và tích tập vào cái tôi ấy những kinh nghiệm của sáu giác quan. Từ đó, tự cắt lìa mình khỏi toàn bộ pháp giới vốn là pháp giới thể tánh. Càng sống, càng có nhiều kinh nghiệm tích tập quanh một cái tôi thì pháp giới càng phân mảnh, chống trái, xung đột nhau. Do đó mà khi nghe toàn thể pháp giới là một vị pháp giới tánh thì bèn kinh quái.

Ở cấp độ chân lý tương đối, có thời gian không gian, sự vật tiến từ nhân đến quả, chúng ta có thể nói rằng pháp giới sanh ra từ pháp giới thể tánh; tất cả các tướng sanh ra từ thể tánhChúng sanhra từ thể tánhhiện hữu trong thể tánh và tiêu tan trong thể tánhThể tánh pháp giới là nền tảng từ đó pháp giới sanh ra, hiệu hữu trong đó và tiêu tan trong đó. Như tất cả bóng sanh ra trên nền tảng là tấm gương, tất cả sóng sanh ra trên nền tảng là đại dương. Ngoài pháp giới thể tánh không có cái gì để nghe, để thấy, để hiểu... Tất cả mọi hiện tượng xuất hiện đều trên nền tảng pháp giới thể tánh, không thể có cái gì có thể ở ngoài nền tảng này.

Mọi xuất hiện, mà theo chúng ta có thể tốt hoặc xấu, đều sanh ra từ pháp giới thể tánh. Thế nên khi Đức Phật nói các chúng sanh kiêu mạn sẽ sanh lòng kinh quá, Bồ-tát Văn-thù lập tức nói, “Phápgiới thể tánh không có kinh quái. Sự kinh quái ấy tức là pháp giới thể tánh”. Đây là sự chỉ thẳngpháp giới thể tánh, mà người thực hành phải dùng tất cả giới, định, huệ mới mong có ngày phá thủng để nhập.

Tiếp theo đoạn kinh trên là sự trả lời cho ngài Xálợi-phất:

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Nếu tất cả pháp đều là pháp giớithể tánh, thì chúng sanh chỗ nào có ô nhiễm có thanh tịnh; vì pháp giới thể tánh không có nhiễm tịnh? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Các chúng sanh ấy thân kiến điên đảochấp ngã và ngã sở. Các phàm phu ấy phát khởi ngã tưởng và tha tưởng mà phát khởi tâm và tâm sở. Những tâm và tâm sở ấy tạo tác các nghiệp thiện hoặc các nghiệp bất thiện. Do hành nghiệpấy làm nhân mà các chúng sanh ấy có quả báo. Nếu đã có sanh thì có nhiễm ô. Chính nhiễm ô ấy là pháp giới thể tánh. Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Nếu biết nhiễm ô là pháp giới thể tánh thì gọi là bạch tịnh vậy. Nhưng nơi đệ nhất nghĩa không có nhiễm ô, không có pháp nhiễm hay pháp tịnh. Khi ngài Văn-thù-sư-lợi nói pháp này, có năm trăm Tỳkheo dứt hết phiền não, được tâm vô lậu”.

Ngài Xá-lợi-phất là một vị A-la-hán, đã được tâm vô lậu, đã rõ, “tất cả pháp đều là pháp giới thể tánh”, nhưng ngài hỏi để làm sáng tỏ thêm cái đệ nhất nghĩa này cho những người chung quanh, và kết quả là có năm trăm Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán.

Nếu tất cả pháp đều là pháp giới thể tánh thì còn có một khe hở nào cho cái nhiễm ô hay cái thanh tịnh? Nếu toàn thể pháp giới bản tánh đều là vàng, thì còn có khe hở nào cho các thứ cặn bã hay gấm vóc, lụa là? Pháp giới là pháp giới thể tánh, và trong pháp giới thể tánh, chỉ có pháp giới thể tánh vô phân biệt, không có nhiễm tịnh, đây là đệ nhất nghĩa.

Trong pháp giới thể tánh không có nhiễm tịnh này, vì điên đảo vọng tưởng mà chúng sanh tưởng ra một thân và một tâm, cho là của mình, từ đó có tưởng tôi (ngã tưởng) và cái khác với tôi (tha tưởng). Đã có tâm thì có các hoạt động của tâm (tâm sởdựa trên các đối tượng hư vọng, từ đó có ra các hành động (nghiệp) thiện và bất thiệnVòng sanh tử luân hồi xoay mãi như vậy.

Cái thấy “pháp giới là pháp giới thể tánh” là chánh kiến của trí huệ cắt đứt vòng sanh tử luân hồi: “Nếu đã có sanh thì có nhiễm ô. Chính nhiễm ô ấy là pháp giới thể tánh”. Không còn ở đâu cónhiễm ô, không còn ở đâu có sự sanh ra nhiễm ô. Tất cả pháp giới đều là pháp giới thể tánh, đều là pháp giới vô lậu.

Ngài Văn-thù-sư-lợi kết luận, “Nếu biết nhiễm ô là pháp giới thể tánh thì gọi là bạch tịnh (trắng sạch) vậy. Nhưng trong đệ nhất nghĩa không có nhiễm ô, không có pháp nhiễm hay tịnh”. Đây là tịnh hoá đệ nhất, sám hối đệ nhất, khiến tâm không còn nhiễm ô, chỉ còn thế giới bạch tịnh.

Để đạt đến pháp giới vốn là pháp giới thể tánh, vốn là pháp giới bạch tịnh này, kinh điển thường dạy VănTư-Tu. Trước hết là nghe, đọc; rồi tư duy về nghĩa; sau đó thực hành bằng thiền định vàthiền quán cho đến khi thấy đệ nhất nghĩa đế rõ ràng. Với những người ít nghiệp xấu, nhiều thiện căn phước đức thì tiến trình xảy ra nhanh. Nhưng dù chậm dù nhanh, thì chân lýđệ nhất nghĩa đế, chỉ có một.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo số 303 15-8-2018

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2710)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2296)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2351)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3693)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2561)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2712)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3072)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2146)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2257)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2563)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2797)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2630)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2390)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2396)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 2955)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2389)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2076)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2168)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2264)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2382)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2438)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2481)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 2978)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2322)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 1927)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2440)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 1859)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2552)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2694)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2702)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2461)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2289)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2570)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2208)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 2983)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2404)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2324)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2192)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 2899)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3792)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2689)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2795)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2385)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2451)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2344)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2099)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2383)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2691)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3682)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant