Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mẹ Hiền

17 Tháng Chín 201804:46(Xem: 5730)
Mẹ Hiền
                                                                                 Mẹ Hiền

                                                                 Thi Phẩm của Nguyễn Sĩ Long


me hien

Qua sự giới thiệu của anh Phù Vân tôi hân hạnh được biết Thi hữu Nguyễn Sĩ Long hiện ở Áo, là tác giả thi phẩm: Mẹ Hiền. Xuất bản tháng 6 năm 2018. Và tôi được một bản gởi tặng. Xin có đôi lời cảm nhận sau khi đọc thi phẩm cùng lời vô vàn biết ơn.

Mẹ Hiền, hai tiếng nầy nghe thân thương,  êm ái, ngọt ngào biết bao. Nghe mãi không nhàm, nghe hoài không chán.

Bởi chúng ta ai cũng có sự hiện diện của mẹ hiền trong tâm. Mẹ hiền là suối mát, là giọt sương mai tưới tẩm cho hoa lá cỏ cây. Mẹ hiền là nguồn yêu thương đang tuôn chảy bất tận trong huyết quản của chúng ta. Mẹ hiền là hương hoa, đường mật, bánh kẹo, sửa ngọt hiến tặng cho nhu cầu tuổi nhỏ, và hình như kể cả tuổi già nữa.

  Có một lần tôi nghe Thầy Nhất Hạnh định nghĩa về mẹ như sau: “Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ  thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không “lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn....

 

  Trong chúng ta có ai đi xa mà không một lần nhớ mẹ? Nhất là trong hoàn cảnh tha hương nầy. Tuy mỗi người mỗi khác nhưng chung quy đều thể hiện một tấm lòng khao khát được uống no nê tình yêu thương của mẹ. Đối với người Phật tử thì sự thể hiện ấy qua hình ảnh mùa Vu lan Báo hiếu. Là dịp để cho người con được cài lên ngực một bông hồng hiếu hạnh. Để tỏ lòng biết ơn cha mẹ còn hiện tiền, và tưởng niệm đến song thân đã quá vãng. Nhắc nhỡ đến công ơn sanh thành dưỡng dục mà suốt cuộc đời nầy có mấy ai báo đáp cho nổi? Vì ca dao nhân gian thường nói: “Mẹ thương con biển hồ lai láng. Con thương mẹ kể tháng kể ngày”! Nghe thật xót xa lắm phải không? Nhưng thực tế chuyện tình đời là như vậy, biết sao !.

  Thi hữu Nguyễn Sĩ Long có lẽ được sinh ra trong “Chiếc nôi Văn hóa tuy cổ xưa nhưng đầy nhân bản, chịu ảnh hưởngràng buộc bởi: Tứ đức tam tùng. Công ngôn dung hạnh”.(trai thời trung hiếu làm đầu. Gái thời tiết hạnh là câu răn mình). Thế cho nên hoài niệm của anh về mẹ thật khác người, tuy giản dị bình dân, nhưng rất tỉ mỉ nhắc lại những giây phút thần tiên trong đời. Bằng lời ngợi ca về mẹ chân chất mộc mạc nhưng uyên áo vô cùng. Thấm đậm biết bao là tình. Tình thương ấy mãi chảy trong anh như một nguồn suối mát. Cho nên anh luôn cảm nhận và chỉ thấy mẹ là biểu tượng đẹp nhất:- “Mẹ Mãi Là Mùa Xuân”.

 

  Chúng ta hảy bước vào khung trời hoài niệm về mẹ của anh để cùng cảm thông: “Chín tháng cưu mang hai mươi năm nuôi dưỡng. Con ra đời trong tổ ấm tình thương. Ở quanh con không có bốn mùa thay đổi. Chỉ một mùa xuân trên tay mẹ, mảnh vườn”.

  Hình ảnh mẹ là mang nặng đẻ đau, nâng niu bú mớm, tần tảo nuôi con. Ngày ngày siêng năng chăm bón những liếp cải vườn cà. Mồ hôi mẹ đã đổ xuống rất nhiều nơi mảnh vườn yêu thương dịu ngọt, thoang thoảng một mùi hương thơm tươi mát của mùa xuân. Anh mang mùa xuân của mẹ ra đi để còn nhớ mãi công đức sanh thành dưỡng dục. Hay mùa xuân của mẹ đã chảy mãi trong anh bằng những giọt yêu thương bắt nguồn từ thời thơ ấu, chỉ cần nhắm mắt để tận hưởng: -“Con nhắm mắt mỗi lần ôm vú mẹ. Nuốt từng dòng sửa ngọt say mê. Mẹ cúi xuống mắt tròn xoe âu yếm. Giọt lệ mừng chảy xuống má tê tê”.

   Thử hỏi còn cảm giác nào sung sướng cho bằng “nằm nhắm mắt ôm vú mẹ” để tận hưởng. Chỉ nhớ đến giây phút tận hưởng nầy thôi cũng đủ thấy năng lượng hạnh phúc vô biên của tuổi nhỏ.

   Những hoạt cảnh tiếp theo cũng không kém phần trân trọngyêu dấu muôn đời:- “Mẹ đút cho con từng miếng cơm muổng cháo. Thức suốt đêm khi con sổ mủi nhức đầu. Mẹ đan cho con từng bao tay chiếc áo./ Bên cuộc đời dù trăm nỗi bể dâu.

  Sự hy sinh của mẹ thật vô bờ bến. Nếu không nhắc lại những chi tiết cụ thể ấy, mà chỉ bao gồm cụm từ chung chung: “công đức sanh thành dưỡng dục” thì e rằng không mấy ai cảm nhận được tình mẹ sâu sắc!.

  Đến công trình giáo dưỡng cũng bắt đầu từ những bài học vỡ lòng. Đơn giản nhưng thiết thực nhất, cần thiết nhất qua tình tự của những người Mẹ Việt Nam:- “Mẹ dạy cho con từng tiếng nói bước đi. Mẹ dạy cho con cầm cây bút chì. Mẹ dạy cho con vòng tay kính cẩn. Cúi đầu chào thưa gởi mỗi lần đi”...

  Những làng quê miền Trung là hình ảnh của nương dâu ruộng lúa, của con sông bờ đê, của lủy tre chiều ru gió. Phía sau rặng tre thường nghe văng vẳng tiếng võng đưa giữa trưa hè kỉu kịt, hòa cùng tiếng ru trẻ ầu ơ: “Ru con con théc cho muồi. Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu. Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh...”. Âm thanh ấy nghe một lần là nhớ dù thời gian phôi pha và không gian ngăn cách:     

-“Quên sao được những câu hò giọng hát. Rất chan hòa trong giấc ngủ âm thanh. Lời mẹ ru có vị ngọt chất lành. Con khôn lớn vẫn nhớ từng nhịp điệu”...

  Dư âm của điệu hò câu hát ấy vẫn còn ghi đậm trong tâm. Vì đây cũng là âm thanh ngọt ngào như tiếng sáo diều muôn thuở, tạo nên hoạt cảnh êm đềm của thôn xóm.

   Nhưng cảnh êm đềm ấy chợt biến mất, khi giặc tràn qua xóm làng gây nên cảnh tang tóc:- “Quên sao được xóm làng xưa xơ xác. Ngày đạn bom đêm pháo kích kinh hồn. Mẹ cõng con khắp đường quê tan nát. Xót xa nhìn nhà cháy ở quanh thôn”.

  Thảm cảnh lịch sử chiến tranh ấy bây giờ nhắc lại chỉ thêm đau lòng. Nhưng nếu không nhắc lại thì làm sao mà hình dung được tấm lòng của mẹ đối với con trong những lúc tản cư lánh nạn? Trong những ngày đạn lạc bom rơi. Như gà mẹ xòe đôi cánh ra để che chở cho đàn con mổi lúc trời giông gió, hay mỗi lúc có cánh diều bay qua. Người mẹ Việt Nam cũng đã che chở cho đàn con trong những ngày hoạn nạn như thế cho đến ngày... “Im tiếng súng mẹ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng ngờ đâu con mẹ phải ra đi. Đời mẹ chưa vui bây giờ thấp thỏm. Sợ tin buồn sau cánh cửa biệt ly”.

  Chiến tranh đã gây biết bao tang thương, đổ vỡ, biệt ly không bao giờ có thể hàn gắn được. Cùng thấy thêm cảnh mẹ già tựa cửa ngóng trông con đang còn ngày đêm ngoài chiến trận... và sau nầy trôi nổi tha hương:

- “Con bất hạnh bên dòng đời trôi nổi. Thiếu mẹ hiền như mất cả mùa xuân. Con cúi đầu xin một lòng tạ lỗi. Ngày đầu năm không có một quây quần”.

  Sau chiến tranh lại thêm cảnh biệt ly. Nghe sao mà não lòng quá. Ôi thân phận của một nước nhược tiểu. Đã trải qua không biết bao nhiêu cơn phong ba bảo táp đã ập xuống trên mảnh đất Mẹ Việt Nam. Thế nhưng nguồn hy vọng đang réo gọi trong con với lời nguyện cầu mẹ được:...“Sống trăm tuổi bạc đầu nhưng vẫn khỏe. Đợi con về trong khúc khải hoàn ca”...

                                                                     *

   Hoài niệm tiếp theo là quê hương và tuổi trẻ, thời cắp sách đến trường vui với bạn bè thầy cô, thời hoa mộng ấy đẹp như khung trời cũ, bóng em xưa. Đã một thời dìu bước anh đi vào đời. Quê hương của anh có dòng sông Hương êm đềm trôi xuôi chở theo bao huyền thoại đẹp. Những con đường có lá me bay, có hàng phượng vĩ, và có những tà áo trắng tinh khôi của các nữ sinh Đồng Khánh:- “Có những cơn mưa giữa ngày mùa hạ. Lối em về hoa phượng rụng đầy tay”...

  Lối em về đẹp não nùng với hai hàng cây bên đường che mát. Trên cao những nhánh phượng trổ bông đỏ cả một gốc trời. Chân bước đi mà ngỡ như trôi theo dòng sông soi bóng nhuộm vẻ đẹp muôn màu. Có rất nhiều điều yêu dấu rồi anh sẽ kể trong “Huế Xưa”:

- “... tôi đưa em qua những con đường phượng vĩ và nhãn lồng/ có ao cá có hồ sen nở rực lúc hừng đông/ như thành phố được thắp muôn vàn ngọn nến...”.

   Cũng có lúc: “... leo mấy chục bậc thang lên cửa Ngọ Môn/ ngắm Quốc kỳ bay cao trong gió/ ngồi hóng mát những lúc sang hè/ nhìn những hàng cây lắc nhẹ/  bên trời hoa sứ nở/ và thích nhất là đếm những cặp tình nhân/ ngồi kín đáo dưới những bức thành rêu phủ hay bên những gốc cây, bờ hồ, tảng đá (họ hôn nhau mùi mẫn và dễ thương chi lạ !).

   Tuổi học trò là tuổi mộng tuổi mơ. Đi lang thang mà không biết đi đâu, đến mà không biết rằng mình đến: -“Huế xưa, tôi đưa em ra ngoài thành qua cửa Đông Ba rẽ trái là đường Đào Duy Từ... đến trường Nguyễn Du để thăm vài người bạn; đôi lúc em muốn dừng trên cầu nhìn xuống Bến Tượng để xem những con đò nằm sát bên nhau thân mật/ rẽ phải là đường Phan Bội Châu/ phía bên ni có tiệm mì Châu Anh, tiệm cháo lòng Vĩnh Phú, tiệm bò tái Đồng Xuân Lâu/ phía bên tê là tiệm mè xửng Song Hỷ nổi tiếng khắp toàn cầu (em hảo ngọt tha hồ mà mang vào lớp học...)

  Huế xưa, tôi cùng em qua cầu Gia Hội thẳng xuống Chi Lăng/ ở bên nớ có quán bún bò O Rớt ngon “tản thần” thường húp hết nước trong tô... ngó qua bên tê người ta ngồi chen nhau trong quán Lạc Sơn/ mùi cà phê bay sang tận bên ni đường phố/ muốn qua ngay mà chắc chi còn chổ (làm răng mà bỏ đi cho được, em hỉ?)...

  Huế và tôi, hình như có rất nhiều duyên nợ/ chỉ riêng em cũng đủ “tắt thở” đây rồi/ chiều lại chiều chở em tận xa xôi/ qua cầu Vạn Xuân viếng thăm chùa Thiên Mụ/ đứng bên nhau đôi lòng khấn nhủ/ xin ơn trên tác hợp vợ chồng...

  Huế xưa, tôi cùng em nhịp bước/ đi bộ qua cầu Trường Tiền/ em thường mặc chiếc áo dài màu trắng/ có thêu tên hai đứa chúng mình/ tay em không rời chiếc nón bài thơ/ ở trong cặp kẹo nougat và ô mai nhiều hơn sách vở...

  Huế xưa, vào những ngày lễ lớn/ tôi đưa em qua Dòng Chúa Cứu Thế, Phú Cam hoặc đi lễ chùa Diệu Đế, Từ Đàm/ rồi ngược dốc Nam Giao lên chùa Từ Hiếu/ ngồi dưới hàng thông vi vút sáo chiều/ nghe tiếng chuông ngân và chim hót/ em hát tôi nghe bài ca tuổi ngọc/ âm thanh nồng như hai má em thơm/ tôi còn đưa em đi thăm đền đài lăng tẩm của các vua chúa triều Nguyễn ngày xưa/ và lên đứng trên đồi Vọng Cảnh/ nhìn những ngày nắng cũng như mưa/ dưới dãy Trường Sơn kiêu hảnh/ để thấy dòng sông Hương muôn đời trầm lặng”...

 

  Dòng Hương Giang mơ màng xuôi chảy dưới chân núi Ngự, là biểu tượng của tình cha nghĩa mẹ (như nước trong nguồn chảy ra) vẫn luôn êm đềm theo năm tháng. Cũng là biểu tượng cho Quê hương và Mẹ. Huế xưa có muôn màu muôn vẻ. Có lễ hội nguy nga của các tôn giáo muôn đời kính ngưỡng. Có những ngày Tết Nguyên Đán cho phố phường khoe sắc, phô hương. Có những ngôi trường vang danh một thời, đã trải dài qua bao thế hệ được đào tạo thành người hữu dụng cho Quốc gia Xã hôi. Có những con đường thơ mộng đã dìu nhiều thế hệ đi qua. Có Văn hóa Cung đình trộn lẫn với Văn học Dân gian tạo nên một nền văn minh hòa đồng của dân tộc. Có những loại thực phẩm được chế biến theo lối gia truyền, cho nên sau nầy dầu có đến đâu rồi cũng không sao có đầy đủ hương vị đặc biệt riêng của Huế.

 

  Thế nhưng nghiệt ngã thay Huế xưa cũng có những ngày tang thương biến đổi, đang đổ xuống bởi bom đạn chiến tranh, bởi hận thù phân hóa.

- “Huế xưa, mỗi ngày thêm chất đắng/ chiến tranh về rung chuyển nhịp đò đưa/ bên nớ bên ni tay vẫy dần thưa/ em ở lại nhạt nhòa đời son trẻ/ nhịp cầu qua sông gảy đôi tình thơ bé/ mùa hè sang lửa đỏ phủ kinh hoàng/ bồng bế nhau đi rời phố xuôi Nam/ vẫn không khỏi trời tháng tư ác nghiệt/ giả từ em mùi trinh nguyên tinh khiết/ những ngón tay đan cứng nghẹn lời/ ngày tôi đi thương nhớ quá đôi môi/ và ánh mắt như ngàn sao theo đuổi/ làn tóc em làm sao tôi quên nổi/ trôi dịu hiền như sóng nước Hương Giang...”

   Tất cả những nguyên liệu vừa ngọt ngào vừa đằm thắm của Huế đã nuôi lớn cuộc đời không phải chỉ là giai đoạn. Mà là mãi mãi ghi khắc trong tâm lòng biết ơn sự sáng tạo của nhiều thế hệ đi qua. Của nhiều bà mẹ không ngớt lo toan, tính toán làm sao cho con mình không thua kém bạn bè. Của chiều dài lịch sử có ngọt bùi có cay đắng trộn lẫn vào nhau. Cho người còn nuôi hy vọng: “qua cơn khổ cực đến ngày thái lai”!

 

  Ngày sinh nhật sáu mươi tuổi, anh ngồi suy nghiệm cuộc đời còn hiện diện đến ngày nay là nhờ nhiều nhân duyên. Những người đã cho anh hình hài vóc dáng, đã nuôi dưỡng lớn khôn, đã dạy dổ nên người đều là những ân nhân tương tác. Được gói ghém trong 55 bài thơ, với 36 tấm hình màu phong cảnh và các bản nhạc được phổ thơ của các thân hữu như bản Mẹ Hiền. Thuyền Em Trên Biển Đông. Sài Gòn Bản Tình Ca Muôn Đời... Cám ơn anh đã đem đến những hương vị ngọt ngào, tươi mát, trong sáng và tinh khôi. Bằng những trang thơ rất dễ thương, và sau cùng thêm lời cảm tạ: -Hôm nay về giữa sáu mươi. Tạ ơn nhân thế tạ đời cưu mang. Quê hương còn lắm cơ hàn. Thơ xin nhận bớt đôi phần đắng cay...

   Thi phẩm “Mẹ Hiền” là một tấm lòng rộng mở trang hoài niệm của một đời. Một lời cảm tạ đến tất cả những nhân duyên tác thành. Và xin nhận bớt những bất hạnh của mẹ cha và quê hương dâu biển để tỏ lòng hiếu hạnh. Như những niệm khúc hát lên cho nhân thế chiêm nghiệm lại cuộc đờituổi thơ mật ngọt, có chuổi ngày mộng mơ, có hạnh phúc và khổ đau hòa quyện trong tâm thức của những người xa quê hương nhưng mãi mãi hướng về quê mẹ ./-

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1546)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1404)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1820)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1576)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1350)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1638)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2163)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1905)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1265)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1444)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1440)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1731)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1484)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1349)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1493)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1434)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1759)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1458)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1417)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1432)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1504)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1691)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1591)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1532)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1408)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1497)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1218)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1388)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1541)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2909)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1547)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1736)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2036)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1577)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1777)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1977)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2173)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1641)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2613)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1706)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1888)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1849)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1616)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2356)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1792)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1852)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1721)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2093)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant