Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Kinh Pháp Môn Căn Bản

16 Tháng Mười 201812:52(Xem: 4542)
Đọc Kinh Pháp Môn Căn Bản

Đọc Kinh Pháp Môn Căn Bản

 

Nguyên Giác

 

Kinh MN 1 (Mulapariyaya Sutta) là Kinh khởi đầu Trung Bộ, được Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Pháp Môn Căn Bản. Các bản tiếng Anh thường dịch là Cội Nguồn Của Tất Cả Các Pháp (như 2 bản Sujato và Bodhi cùng dịch là: The Root of All Things). Bài này sẽ phân tích dựa vào 5 bản Anh dịch (của quý ngài Bodhi, Sujato, Horner, Thanissaro, Nanamoli) và bản Việt dịch (của Hòa Thượng Thích Minh Châu). Cả 6 bản này có đều liên kết mạng ở (1).

Điểm đặc biệt nhận thấy là phần kết của Kinh. Bình thường, chúng ta đọc thấy những dòng chữ như “chư tăng hoan hỷ” và “y giáo phụng hành” và vân vân. Nhưng các bản dịch của Bodhi, Sujato, Thanissaro, Nanamoli viết rằng sau khi nghe Đức Phật thuyết kinh này, chư tăng “không hoan hỷ.” Đây là kinh duy nhất trong Tạng Pali có ghi rằng 500 vị sư nghe Như Lai thuyết xong là không hoan hỷ.

Bản của Nanamoli viết: “That is what the Blessed One said. The bhikkhus did not delight in his words.” (Đó là lời Đức Thế Tôn dạy. Các vị sư không vui với lời của Đức Thế Tôn.)

Bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu viết: “Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.” Tương tự, Horner dịch là chư tăng hoan hỷ.

Tại sao có dị biệt?

Trong các lời ghi chú của Thanissaro, Bodhi và Nanamoli nói rằng, theo Luận thư, nhóm 500 vị sư này mang theo tà kiến Bà La Môn, nên không hoan hỷ. Và nhóm 500 vị sư này trong cơ duyên về sau, khi nghe Đức Phật thuyết một kinh khác (Kinh Gotamaka Sutta) đã hoan hỷ, tức khắc đắc quả A La Hán.

Tuy nhiên, Luận thư là ghi chú từ các luận sư vài thế kỷ sau Đức Phật, viết gì cũng là từ suy đoán riêng, không phải là từ những vị tăng trong pháp hội để hiểu vì sao không hoan hỷ. Bhikkhu Sujato, một trong các học giả chủ lực của trang Sutta Central, không tin vào luận thư, kể cả các bộ A Tỳ Đàm, từng viết rằng bản thân ngài sau một thời học nghiền ngẫm, rồi phải tập quên các bộ luận đi, và khuyên chủ yếu nên dựa vào kinh thay vì luận. Tuy nhiên, bất kỳ sự kiện nào cũng có nhiều giải thích. Nơi đây, chúng ta sẽ tập trung vào lời Đức Phật dạy.

Dưới đây, xin trích vài đoạn trong bản dịch của HT Thích Minh Châu, phần đầu là Đức Phật nói về kẻ không biết gì Phật pháp (phàm phu), kế tiếp nói về người chưa giải thoát nhưng đã biết cách tu học (vị hữu học). Sẽ không trích phần quý ngài A La Hán, vì ở ngoài tầm của người viết.

Kinh Pháp Môn Căn Bản viết, trích:

(Phàm phu)

—Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đạiđịa đại. Vì tưởng tri địa đạiđịa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: “Địa đại là của ta” —dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại...

Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: “Niết-bàn là của ta” —dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn...

...

(Vị hữu học)

Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đạiđịa đại. Vì thắng tri địa đạiđịa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Địa đại là của ta”,—không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại....

Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” —không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.

(Bậc A-la-hán—I)...”(ngưng trích)

 

Bài kinh trên, sau khi nói địa đại, là theo thứ tự tới thủy đạihỏa đạiphong đại … Sanh vật … chư ThiênSanh chủPhạm thiênQuang âm thiênBiến tịnh thiênQuảng quả thiên … Abhibhù (Thắng Giả) … Không vô biên xứThức vô biên xứVô sở hữu xứPhi tưởng phi phi tưởng xứsở kiến … sở văn … sở tư niệm … sở tri … đồng nhất … sai biệt … tất cả … rồi mới tới Niết bàn.

Nơi đây, chúng  ta trích đoạn và dịch từ bản Sujato:

“(Phàm phu) They perceive the seen as the seen. But then they conceive the seen… Why is that? Because they haven’t completely understood it, I say...

(Phàm phu) Họ nhận biết cái được thấy như là cái được thấy. Nhưng rồi họ suy nghĩ tư lường cái được thấy… Tại sao thế? Bởi vì họ không hoàn toàn hiểu nó, ta nói…

...(Vị hữu học) A mendicant who is a trainee, who hasn’t achieved their heart’s desire, but lives aspiring to the supreme sanctuary, directly knows earth as earth. But they shouldn’t conceive earth, they shouldn’t conceive regarding earth, they shouldn’t conceive as earth, they shouldn’t conceive that ‘earth is mine’, they shouldn’t take pleasure in earth. Why is that? So that they may completely understand it, I say. 

(Vị hữu học)… Một nhà sư đang còn ở vị hữu học, chưa thành đạt thánh quả nào, nhưng sống theo hạnh tối thượng, trực tiếp biết đất (địa đại) như đất. Nhưng họ không nên suy nghĩ tư lường đất, họ không nên suy nghĩ tư lường về đất, họ không nên suy nghĩ tư lường như đất, họ không nên suy nghĩ tư lường rằng ‘đất là của tôi’, họ không nên tìm vui trong đất. Tại sao thế? Để họ có thể hoàn toàn hiểu được nó, ta nói.”

Tương tự, sau đất là tất cả các pháp.

Kinh này không dạy Niệm thân, thọ, tâm, pháp… cũng không dạy Niệm từ, bi, hỷ xả… cũng không dạy Lục niệm hay Thập niệm. Mà là dạy, rằng chớ suy nghĩ tư lường, nghĩa là chớ niệm gì cả.

Cái sai của phàm phu (trong Kinh MN 1) là gì? Đức Phật nói rất rõ: cái sai của phàm phu là sau khi tưởng tri (nhận biết, perceived, perception) là phàm phu liền suy nghĩ tư lường (conceives).

Tưởng tri là một chức năng của tâm (trong nhóm sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Tưởng là nói ngắn gọn, là khả năng sau khi thấy, thì nhận biết màu đỏ là đỏ, màu xanh là xanh.

Trong khi đó, vị hữu học (người theo học Đức Phật, theo Kinh MN 1) là nhận biết chỉ là nhận biết, mà không suy nghĩ tư lường gì.

Tương tự, bản kinh cũng ghi rằng các vị A  La Hán cũng thếthấy nghe hay biết, nhưng không suy nghĩ tư lường.

Tại sao? Tại sao không suy nghĩ tư lường? Có nghĩa là vô niệm như Thiền Đạt Ma? 

Nên thấy, không có nghĩa là chúng ta phải từ bỏ chức năng suy tư, nhưng chỉ có nghĩa là đối với người sống trực nhận pháp ấn vô thườngvô ngã, thì không một pháp nào lưu trong tâm nữa. Cuộc sống là dòng vô thường chảy siết tràn ngập qua thân, tâm chúng ta

Thí dụ, chúng ta đang lắng nghe (bất kỳ ai cũng có thể lắng nghe và cảm nhận, không cần đọc hết bộ Kinh Lăng Nghiêm), ngay khi suy nghĩ tư lường là mất cái hiện tiền, vì suy nghĩ tư lường là phải vin vào ký ức, vào cái đã trôi qua, vào cái sắc thanh hương vị xúc pháp của quá khứ mới có thể suy nghĩ tư lường. Nghĩa là, khi suy nghĩ tư lường là lập tức chúng ta đang sống với tâm quá khứ, hoặc đang phóng chiếu mơ tưởng về tâm tương lai. Trong cái dòng chảy siết hiện tiền, trong cái thấy nghe hay biết hiện tiềntrực nhận được vô ngã (vì không vin được cái gì), là vô thường (vì không níu được cái âm thanh hồi nãy).

Tới đây, chúng ta có thể nhớ tới Kinh Tuấn Mã (Saddha Sutta), Đức Phật dạy rằng học trò giỏi nhà Phật là không vin vào bất kỳ pháp nào (hiểu là, vô sở trụ):

Trích bản Thanissaro Bhikkhu dịch là: “He is absorbed dependent neither on earth, liquid, fire, wind... nor on whatever is seen, heard, sensed, cognized…” (Vị này thiền định không dựa vào đất nước gió lửa… cũng không dựa vào bất cứ những gì được thấy, nghe, cảm thọ, nhận biết…)

Liên kết Kinh Tuấn Mã với 4 bản Anh dịch và một bản Việt dịch đặt ở (2).

 

Như thế, câu hỏi là: lộ trình tâm nào dẫn tới sinh tử luân hồi?

Để hiểu tận tường tiến trình này, nơi đây, chúng ta dẫn ra Kinh MN 18 (Kinh Mật Hoàn). Thí dụ, nói về mắt (nhãn căn) và chung tất cả các căn khác, tiến trình sẽ như sau.

Căn (eye) + trần (sights) + thức (eye consciousness) => xúc (contact) => thọ (feeling) => tưởng (perception) => suy tầm (thought, thinking, reasoning -- thường gọi tắt là "niệm") => hý luận vọng tưởng (being beset by concepts of identity that emerge from the proliferation of perceptions -- thường gọi là "tâm phan duyên"). 

Nơi đây, trích Kinh Mật Hoàn, bản dịch của ngài Minh Châu, chỗ này như sau:

Chư Hiền, do nhơn con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thì có hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người, đối với các sắc pháp do con mắt nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện tại...

Chư Hiền, sự kiện này không xảy ra: khi nào không có mắt, khi nào không có các sắc, khi nào không có nhãn thức, sự thi thiết của xúc được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của xúc, sự thi thiết của thọ được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của thọ, sự thi thiết của tưởng được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của tưởng, sự thi thiết của suy tầm được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của suy tầm, thời sự thi thiết của sự ám ảnh một số hý luận vọng tưởng được hiển lộ.”(3)

 

Như thế, chúng ta mới hiểu tại sao trong Kinh Bahiya (và tương tự, ở Kinh Malunkyaputta), Đức Phật dạy rằng:

“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.

“Khi với ông, này Bahiya, trong cái được thấy chỉ là cái được thấy… [nhẫn tới]… trong cái được thức tri chỉ là cái được thức tri, thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘với đó.’ Này Bahiya, khi ông không là ‘với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘trong đó.’ Này Bahiya, khi ông không ‘trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn tận khổ đau.” 

Có nghĩa là, chớ suy nghĩ tư lường. Có nghĩa là, hãy để thấy nghe hay biết như là thấy nghe hay biết, hãy để hiển lộ cái vô thường trôi chảy trên khối xương da của mình, và hãy cảm nhận dòng chảy vô thường đó.

 

Trong Tạng Pali, chữ “vô niệm” của Lục Tổ Huệ Năng có thể hiểu là “đoạn tận thức” (trước khi bị lôi tới hý luận và tâm phan duyên – theo Kinh Mật Hoàn dẫn trên).

Như thế “đoạn tận thức” là cắt một mắc xích trong Thập Nhị Nhân Duyên, vì đoạn tận thức là đoạn tận danh-sắc, là kết thúc sanh già bệnh chết.

Và trong rất nhiều kinh, Đức Phật dạy là phải đoạn tận thức.

Thí dụ, trong Kinh SN 22.53, bản Việt dịch của HT Minh Châu:

"...nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới … đối với tưởng giới … đối với hành giới … Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thức giới, do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

Không có chỗ y chỉ ấy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát..." (4)

 

Như thế, Kinh Mật Hoàn giải thích cho chúng ta có thể hiểu thêm về Kinh Tuấn Mã và Kinh Bahiya, đặc biệt là với Kinh Pháp Môn Căn Bản – khi Đức Phật dạy rằng chớ suy nghĩ tư lường.

Mà hãy cứ để thấy là cái được thấy, cứ để nghe là cái được nghe… như thế, pháp ấn vô thườngpháp ấn vô ngã sẽ hiển lộ tức khắc trước mắt và bên tai. 

Đó là Đức Phật dạy pháp vô niệm. Và nghe xong, 500 vị sư thấy bất ngờ, thấy lời dạy dị biệt với những gì đã quen nghe từ khi mới xuất gia, cho nên cuối bản Kinh Căn Bản Pháp Môn có ghi dòng chữ: “Đó là lời Đức Thế Tôn dạy. Các vị sư không vui với lời của Đức Thế Tôn.” 

 

GHI CHÚ:

(1)Kinh MN 1 – Kinh Pháp Môn Căn Bản.

Bản Thanissaro: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.001.than.html

Bản Sujato: https://suttacentral.net/mn1/en/sujato

Bản Bodhi: https://suttacentral.net/mn1/en/bodhi

Bản Nanamoli Thera: https://pathpress.wordpress.com/2012/05/06/mn-1-mulapariyaya-sutta-111/

Bản Horner: https://suttacentral.net/mn1/en/horner

Bản dịch HT Minh Châu: https://suttacentral.net/mn1/vi/minh_chau

(2)Kinh Tuấn Mã - Saddha Sutta.

Bản của Thanissaro: https://suttacentral.net/an11.9/en/thanissaro

Bản của Sujato: https://suttacentral.net/an11.9/en/sujato

Bản của Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi: http://www.mnbv.org/wp-content/uploads/2014/06/MBV_Newsletter_2011_Kathina.pdf

Bản của Ni Trưởng Sister Uppalavanna – http://awake.kiev.ua/dhamma/tipitaka/2Sutta-Pitaka/4Anguttara-Nikaya/Anguttara6/11-ekadasakanipata/001-nissayavaggo-e.html

Bản của HT Thích Minh Châu – http://thuvienhoasen.org/a1267/pham-01-03     

Tham khảo: https://thuvienhoasen.org/a25964/bai-kinh-tuan-ma-va-thien-tong

(3)Kinh Mật Hoàn: https://suttacentral.net/mn18/vi/minh_chau

(4)Kinh SN 22.53:  https://suttacentral.net/sn22.53/vi/minh_chau

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1204)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 933)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1254)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 718)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 689)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 761)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 770)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 753)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 749)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 903)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 783)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 942)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 944)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 872)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 878)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 814)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 962)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 896)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 835)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 924)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 848)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 903)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 837)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1099)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 867)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 952)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1098)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1571)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1110)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1182)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1056)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 920)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 867)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 912)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 758)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1438)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1315)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1277)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1216)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1332)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1282)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1420)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1298)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1163)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1206)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1266)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1250)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1363)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant