Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Kinh Pháp Môn Căn Bản

16 Tháng Mười 201812:52(Xem: 4598)
Đọc Kinh Pháp Môn Căn Bản

Đọc Kinh Pháp Môn Căn Bản

 

Nguyên Giác

 

Kinh MN 1 (Mulapariyaya Sutta) là Kinh khởi đầu Trung Bộ, được Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Pháp Môn Căn Bản. Các bản tiếng Anh thường dịch là Cội Nguồn Của Tất Cả Các Pháp (như 2 bản Sujato và Bodhi cùng dịch là: The Root of All Things). Bài này sẽ phân tích dựa vào 5 bản Anh dịch (của quý ngài Bodhi, Sujato, Horner, Thanissaro, Nanamoli) và bản Việt dịch (của Hòa Thượng Thích Minh Châu). Cả 6 bản này có đều liên kết mạng ở (1).

Điểm đặc biệt nhận thấy là phần kết của Kinh. Bình thường, chúng ta đọc thấy những dòng chữ như “chư tăng hoan hỷ” và “y giáo phụng hành” và vân vân. Nhưng các bản dịch của Bodhi, Sujato, Thanissaro, Nanamoli viết rằng sau khi nghe Đức Phật thuyết kinh này, chư tăng “không hoan hỷ.” Đây là kinh duy nhất trong Tạng Pali có ghi rằng 500 vị sư nghe Như Lai thuyết xong là không hoan hỷ.

Bản của Nanamoli viết: “That is what the Blessed One said. The bhikkhus did not delight in his words.” (Đó là lời Đức Thế Tôn dạy. Các vị sư không vui với lời của Đức Thế Tôn.)

Bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu viết: “Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.” Tương tự, Horner dịch là chư tăng hoan hỷ.

Tại sao có dị biệt?

Trong các lời ghi chú của Thanissaro, Bodhi và Nanamoli nói rằng, theo Luận thư, nhóm 500 vị sư này mang theo tà kiến Bà La Môn, nên không hoan hỷ. Và nhóm 500 vị sư này trong cơ duyên về sau, khi nghe Đức Phật thuyết một kinh khác (Kinh Gotamaka Sutta) đã hoan hỷ, tức khắc đắc quả A La Hán.

Tuy nhiên, Luận thư là ghi chú từ các luận sư vài thế kỷ sau Đức Phật, viết gì cũng là từ suy đoán riêng, không phải là từ những vị tăng trong pháp hội để hiểu vì sao không hoan hỷ. Bhikkhu Sujato, một trong các học giả chủ lực của trang Sutta Central, không tin vào luận thư, kể cả các bộ A Tỳ Đàm, từng viết rằng bản thân ngài sau một thời học nghiền ngẫm, rồi phải tập quên các bộ luận đi, và khuyên chủ yếu nên dựa vào kinh thay vì luận. Tuy nhiên, bất kỳ sự kiện nào cũng có nhiều giải thích. Nơi đây, chúng ta sẽ tập trung vào lời Đức Phật dạy.

Dưới đây, xin trích vài đoạn trong bản dịch của HT Thích Minh Châu, phần đầu là Đức Phật nói về kẻ không biết gì Phật pháp (phàm phu), kế tiếp nói về người chưa giải thoát nhưng đã biết cách tu học (vị hữu học). Sẽ không trích phần quý ngài A La Hán, vì ở ngoài tầm của người viết.

Kinh Pháp Môn Căn Bản viết, trích:

(Phàm phu)

—Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đạiđịa đại. Vì tưởng tri địa đạiđịa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: “Địa đại là của ta” —dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại...

Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: “Niết-bàn là của ta” —dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn...

...

(Vị hữu học)

Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đạiđịa đại. Vì thắng tri địa đạiđịa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: “Địa đại là của ta”,—không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại....

Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: “Niết-bàn là của ta” —không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.

(Bậc A-la-hán—I)...”(ngưng trích)

 

Bài kinh trên, sau khi nói địa đại, là theo thứ tự tới thủy đạihỏa đạiphong đại … Sanh vật … chư ThiênSanh chủPhạm thiênQuang âm thiênBiến tịnh thiênQuảng quả thiên … Abhibhù (Thắng Giả) … Không vô biên xứThức vô biên xứVô sở hữu xứPhi tưởng phi phi tưởng xứsở kiến … sở văn … sở tư niệm … sở tri … đồng nhất … sai biệt … tất cả … rồi mới tới Niết bàn.

Nơi đây, chúng  ta trích đoạn và dịch từ bản Sujato:

“(Phàm phu) They perceive the seen as the seen. But then they conceive the seen… Why is that? Because they haven’t completely understood it, I say...

(Phàm phu) Họ nhận biết cái được thấy như là cái được thấy. Nhưng rồi họ suy nghĩ tư lường cái được thấy… Tại sao thế? Bởi vì họ không hoàn toàn hiểu nó, ta nói…

...(Vị hữu học) A mendicant who is a trainee, who hasn’t achieved their heart’s desire, but lives aspiring to the supreme sanctuary, directly knows earth as earth. But they shouldn’t conceive earth, they shouldn’t conceive regarding earth, they shouldn’t conceive as earth, they shouldn’t conceive that ‘earth is mine’, they shouldn’t take pleasure in earth. Why is that? So that they may completely understand it, I say. 

(Vị hữu học)… Một nhà sư đang còn ở vị hữu học, chưa thành đạt thánh quả nào, nhưng sống theo hạnh tối thượng, trực tiếp biết đất (địa đại) như đất. Nhưng họ không nên suy nghĩ tư lường đất, họ không nên suy nghĩ tư lường về đất, họ không nên suy nghĩ tư lường như đất, họ không nên suy nghĩ tư lường rằng ‘đất là của tôi’, họ không nên tìm vui trong đất. Tại sao thế? Để họ có thể hoàn toàn hiểu được nó, ta nói.”

Tương tự, sau đất là tất cả các pháp.

Kinh này không dạy Niệm thân, thọ, tâm, pháp… cũng không dạy Niệm từ, bi, hỷ xả… cũng không dạy Lục niệm hay Thập niệm. Mà là dạy, rằng chớ suy nghĩ tư lường, nghĩa là chớ niệm gì cả.

Cái sai của phàm phu (trong Kinh MN 1) là gì? Đức Phật nói rất rõ: cái sai của phàm phu là sau khi tưởng tri (nhận biết, perceived, perception) là phàm phu liền suy nghĩ tư lường (conceives).

Tưởng tri là một chức năng của tâm (trong nhóm sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Tưởng là nói ngắn gọn, là khả năng sau khi thấy, thì nhận biết màu đỏ là đỏ, màu xanh là xanh.

Trong khi đó, vị hữu học (người theo học Đức Phật, theo Kinh MN 1) là nhận biết chỉ là nhận biết, mà không suy nghĩ tư lường gì.

Tương tự, bản kinh cũng ghi rằng các vị A  La Hán cũng thếthấy nghe hay biết, nhưng không suy nghĩ tư lường.

Tại sao? Tại sao không suy nghĩ tư lường? Có nghĩa là vô niệm như Thiền Đạt Ma? 

Nên thấy, không có nghĩa là chúng ta phải từ bỏ chức năng suy tư, nhưng chỉ có nghĩa là đối với người sống trực nhận pháp ấn vô thườngvô ngã, thì không một pháp nào lưu trong tâm nữa. Cuộc sống là dòng vô thường chảy siết tràn ngập qua thân, tâm chúng ta

Thí dụ, chúng ta đang lắng nghe (bất kỳ ai cũng có thể lắng nghe và cảm nhận, không cần đọc hết bộ Kinh Lăng Nghiêm), ngay khi suy nghĩ tư lường là mất cái hiện tiền, vì suy nghĩ tư lường là phải vin vào ký ức, vào cái đã trôi qua, vào cái sắc thanh hương vị xúc pháp của quá khứ mới có thể suy nghĩ tư lường. Nghĩa là, khi suy nghĩ tư lường là lập tức chúng ta đang sống với tâm quá khứ, hoặc đang phóng chiếu mơ tưởng về tâm tương lai. Trong cái dòng chảy siết hiện tiền, trong cái thấy nghe hay biết hiện tiềntrực nhận được vô ngã (vì không vin được cái gì), là vô thường (vì không níu được cái âm thanh hồi nãy).

Tới đây, chúng ta có thể nhớ tới Kinh Tuấn Mã (Saddha Sutta), Đức Phật dạy rằng học trò giỏi nhà Phật là không vin vào bất kỳ pháp nào (hiểu là, vô sở trụ):

Trích bản Thanissaro Bhikkhu dịch là: “He is absorbed dependent neither on earth, liquid, fire, wind... nor on whatever is seen, heard, sensed, cognized…” (Vị này thiền định không dựa vào đất nước gió lửa… cũng không dựa vào bất cứ những gì được thấy, nghe, cảm thọ, nhận biết…)

Liên kết Kinh Tuấn Mã với 4 bản Anh dịch và một bản Việt dịch đặt ở (2).

 

Như thế, câu hỏi là: lộ trình tâm nào dẫn tới sinh tử luân hồi?

Để hiểu tận tường tiến trình này, nơi đây, chúng ta dẫn ra Kinh MN 18 (Kinh Mật Hoàn). Thí dụ, nói về mắt (nhãn căn) và chung tất cả các căn khác, tiến trình sẽ như sau.

Căn (eye) + trần (sights) + thức (eye consciousness) => xúc (contact) => thọ (feeling) => tưởng (perception) => suy tầm (thought, thinking, reasoning -- thường gọi tắt là "niệm") => hý luận vọng tưởng (being beset by concepts of identity that emerge from the proliferation of perceptions -- thường gọi là "tâm phan duyên"). 

Nơi đây, trích Kinh Mật Hoàn, bản dịch của ngài Minh Châu, chỗ này như sau:

Chư Hiền, do nhơn con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy tầm, những gì có suy tầm thì có hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người, đối với các sắc pháp do con mắt nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện tại...

Chư Hiền, sự kiện này không xảy ra: khi nào không có mắt, khi nào không có các sắc, khi nào không có nhãn thức, sự thi thiết của xúc được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của xúc, sự thi thiết của thọ được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của thọ, sự thi thiết của tưởng được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của tưởng, sự thi thiết của suy tầm được hiển lộ. Sự kiện này không xảy ra: khi nào không có sự thi thiết của suy tầm, thời sự thi thiết của sự ám ảnh một số hý luận vọng tưởng được hiển lộ.”(3)

 

Như thế, chúng ta mới hiểu tại sao trong Kinh Bahiya (và tương tự, ở Kinh Malunkyaputta), Đức Phật dạy rằng:

“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.

“Khi với ông, này Bahiya, trong cái được thấy chỉ là cái được thấy… [nhẫn tới]… trong cái được thức tri chỉ là cái được thức tri, thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘với đó.’ Này Bahiya, khi ông không là ‘với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘trong đó.’ Này Bahiya, khi ông không ‘trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn tận khổ đau.” 

Có nghĩa là, chớ suy nghĩ tư lường. Có nghĩa là, hãy để thấy nghe hay biết như là thấy nghe hay biết, hãy để hiển lộ cái vô thường trôi chảy trên khối xương da của mình, và hãy cảm nhận dòng chảy vô thường đó.

 

Trong Tạng Pali, chữ “vô niệm” của Lục Tổ Huệ Năng có thể hiểu là “đoạn tận thức” (trước khi bị lôi tới hý luận và tâm phan duyên – theo Kinh Mật Hoàn dẫn trên).

Như thế “đoạn tận thức” là cắt một mắc xích trong Thập Nhị Nhân Duyên, vì đoạn tận thức là đoạn tận danh-sắc, là kết thúc sanh già bệnh chết.

Và trong rất nhiều kinh, Đức Phật dạy là phải đoạn tận thức.

Thí dụ, trong Kinh SN 22.53, bản Việt dịch của HT Minh Châu:

"...nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới … đối với tưởng giới … đối với hành giới … Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thức giới, do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

Không có chỗ y chỉ ấy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát..." (4)

 

Như thế, Kinh Mật Hoàn giải thích cho chúng ta có thể hiểu thêm về Kinh Tuấn Mã và Kinh Bahiya, đặc biệt là với Kinh Pháp Môn Căn Bản – khi Đức Phật dạy rằng chớ suy nghĩ tư lường.

Mà hãy cứ để thấy là cái được thấy, cứ để nghe là cái được nghe… như thế, pháp ấn vô thườngpháp ấn vô ngã sẽ hiển lộ tức khắc trước mắt và bên tai. 

Đó là Đức Phật dạy pháp vô niệm. Và nghe xong, 500 vị sư thấy bất ngờ, thấy lời dạy dị biệt với những gì đã quen nghe từ khi mới xuất gia, cho nên cuối bản Kinh Căn Bản Pháp Môn có ghi dòng chữ: “Đó là lời Đức Thế Tôn dạy. Các vị sư không vui với lời của Đức Thế Tôn.” 

 

GHI CHÚ:

(1)Kinh MN 1 – Kinh Pháp Môn Căn Bản.

Bản Thanissaro: https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.001.than.html

Bản Sujato: https://suttacentral.net/mn1/en/sujato

Bản Bodhi: https://suttacentral.net/mn1/en/bodhi

Bản Nanamoli Thera: https://pathpress.wordpress.com/2012/05/06/mn-1-mulapariyaya-sutta-111/

Bản Horner: https://suttacentral.net/mn1/en/horner

Bản dịch HT Minh Châu: https://suttacentral.net/mn1/vi/minh_chau

(2)Kinh Tuấn Mã - Saddha Sutta.

Bản của Thanissaro: https://suttacentral.net/an11.9/en/thanissaro

Bản của Sujato: https://suttacentral.net/an11.9/en/sujato

Bản của Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi: http://www.mnbv.org/wp-content/uploads/2014/06/MBV_Newsletter_2011_Kathina.pdf

Bản của Ni Trưởng Sister Uppalavanna – http://awake.kiev.ua/dhamma/tipitaka/2Sutta-Pitaka/4Anguttara-Nikaya/Anguttara6/11-ekadasakanipata/001-nissayavaggo-e.html

Bản của HT Thích Minh Châu – http://thuvienhoasen.org/a1267/pham-01-03     

Tham khảo: https://thuvienhoasen.org/a25964/bai-kinh-tuan-ma-va-thien-tong

(3)Kinh Mật Hoàn: https://suttacentral.net/mn18/vi/minh_chau

(4)Kinh SN 22.53:  https://suttacentral.net/sn22.53/vi/minh_chau

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 82)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 102)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 109)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 211)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 230)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 264)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 243)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 263)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 345)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 309)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 307)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 289)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 329)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 322)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 262)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 209)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 249)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 266)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 355)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 417)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 432)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 423)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 406)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 417)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 687)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 640)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 928)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 511)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 756)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 577)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 568)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 459)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 578)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 546)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 730)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 519)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 901)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 647)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 638)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1068)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 744)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 636)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 941)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 597)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 722)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 699)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 678)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 698)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 690)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 586)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant