Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Là Tất Cả Mà Không Là Gì Cả

11 Tháng Mười Một 201817:50(Xem: 6496)
Là Tất Cả Mà Không Là Gì Cả

Là Tất Cả Mà Không Là Gì Cả

Nguyễn Thế Đăng


Là Tất Cả Mà Không Là Gì Cả


Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh (ấy) cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ (tánh Không) thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới (dơ, sạch) là pháp giới thể tánh”.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ (bồ-đề) của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề (giác ngộ), thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1489)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1940)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1765)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1889)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2066)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1437)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1679)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1587)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1653)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2222)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1917)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1858)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1691)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2006)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1626)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1771)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1978)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1516)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1762)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1732)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1977)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1748)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1604)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1575)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1590)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1676)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1545)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1507)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2030)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1785)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1594)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2138)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1784)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1861)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2057)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2324)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2352)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1887)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2325)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1695)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1724)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2055)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2585)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1482)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1445)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1605)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1433)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant