Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Học Trong Lịch Sử Việt Nam

29 Tháng Mười Một 201807:44(Xem: 6154)
Bài Học Trong Lịch Sử Việt Nam

Bài Học Trong Lịch Sử Việt Nam

Nguyên Cẩn

hoa sen


Cuộc khởi nghĩa Lý

Những vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên đã đến Việt Nam để quảng bá Phật pháp vào khoảng đầu thế kỷ thứ II sau Tây lịch, giữa lúc người dân đất Giao Châu đang rên siết dưới sự bạo tàn của nền đô hộ mà ngưới Hán đã dựng nên. Sự tàn sát người bản xứ từ Phong Châu đến Tượng Quận, Cửu Chân và Nhật Nam bởi Hán Mã Viện và Ngô Lục Duệ có lẽ chưa phai mờ trong ký ức của dân Lạc Việt. Những người sống sót và ở lại phải cam chịu sự sống trong sợ hãi, buồn thảm và tủi nhục của bọn nô lệ vong quốc. Sự đồng hóa, bắt đầu với Mã Viện và Sĩ Nhiếp, vẫn tiến hành một cách nghiêm khắccưỡng bức để xóa hết những vết tích còn lại trong văn hóa người dân bản địa.

“Trong cái khung cảnh đàn áp và tàn bạo ấy, đạo Phật đã đến như một ngọn gió mát, và như những người mất nước, mất gốc và mất đến cả tính cách con người của đất này, đã lấy lại được hy vọngniềm tin trong tôn giáo của tình thương, một tôn giáo mà người thổ dân không biết từ đâu đến, nhưng chắc chắn không phải của đế quốc đem sang… Đây chính là cái lý do thâm trầm đã làm cho đạo Phật ăn sâu vào trong lòng dân. Không phải chỉ vì những tỳ-khưu đã điểm hóa cho người dân Việt là những bậc kỳ tài. Nhưng mà quan trọng hơn nữa là vì đạo Phật là do những người không phải là thực dân đem tới cho đám lê dân đau khổ của một nước bị trị, bị dày xéo, để an ủixoa dịu họ.

Các chùa chiền đã dựng lên một hệ thống giáo dục cho dân chúng, để truyền bá đạo pháp và những ý kiến mới về giá trị con người… Và đến thế kỷ thứ VI thì cái quả đầu tiên đã được cấu thành, đó là cuộc nổi loạn quy mô chống lại đế quốc, cầm đầu bởi Lý Bí và một người cháu mà lịch sử chỉ gọi đơn giảnLý Phật Tử. Họ Lý tuy không thành công vì những tranh chấp trong hàng ngũ lãnh đạo. Tuy vậy cuộc khởi nghĩa của nhà Tiền Lý cũng đã cắt đứt được sự Bắc thuộc trong 60 năm (541-602)”2 .

Thiền Yên Tử và chiến thắng xâm lăng

Theo Giáo sư Cao Huy Thuần, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông nằm ở tinh thần đoàn kết quốc gialãnh đạo giỏi.

Ông cho rằng thành tựu văn hóa đời Trần phải kể đến “tam giáo đồng nguyên” khi vị vua Phật tử, vua Thiền sư Trần Thái Tông sùng kính Khổng Lão trong chính tư tưởng chứ không phải chỉ dùng Khổng Mạnh như một công cụ chính trị.

Trích dẫn Khóa hư lục: “Nếu liễu ngộ thì tam giáo đều giống nhau, bởi vì chỉ cần xoay lại, tia sáng rọi vào mình thì tánh giác ở ai cũng giống nhau”. Cái độc đáo của Phật giáo đời nhà Trần là “lấy Thiền tông làm chỗ dựa để dung hợp Khổng Lão vào một nhà”, thế nên Thiền đời Trần là Thiền Việt NamViệt Nam cần đoàn kết chống xâm lăng trước mắt, nên “Phật giáo được quần chúng hóa, ta đi ở giữa bụi đời mà vẫn thấy cư trần lạc đạo”3 .

Trong một bài viết trước đây, chúng tôi đã viết “… vua Trần Nhân Tông không chỉ đánh giá cao những người lãnh đạo tài ba thuộc tầng lớp trên của xã hội, ngay cả những người dân thuộc tầng lớp thấp kém nhất, tầng lớp gia đồng, vua cũng có một đánh giá như thế. Tầng lớp này vào thời điểm ấy có thể không phải thuộc thành phần được học hành nhiều, có của cải khá, nhưng đối với sự tồn vong của quốc gia, họ vẫn có những đóng góp to lớn, thậm chí bằng chính cả xương máu của chính mình. Thế nên chúng ta mới có những anh hùng dân dã như Yết Kiêu, Dã Tượng… Trần Nhân Tông đã vận dụng lực lượng chủ lực ấy, vốn nằm ở đáy tầng, là sức gốc, là mặt trận gốc, gồm có tuyệt đại đa số dân chúng trung kiên của xã hội Việt.

Chỉ có phát huy dân chủ dựa vào cương thường lấy con người làm nền tảng mới là phương sách đem đến sức mạnh cho kháng chiến và xây dựng trong hòa bình, đồng thời gìn giữ hòa bình lâu dài. Bằng cái nhìn xuyên thấu trước thời đại, Trần Nhân Tông đã cứu nước và giữ nòi bằng một cương lĩnh hành động rất đầy đủ, mang tính cách mạng và hướng thượng”4 .

Ngẫm câu nói của của nho gia Lê Quát: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người sao mà được người tin theo sâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật dù cho hết tiền của cũng không sẻn tiếc… Cho nên trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm không phải ra lệnh mà tuân theo, không bắt phải thề mà giữ đúng”5 .

Phải chăng đó là sức mạnh khiến Trần Hưng Đạo tin chắc sẽ thắng trận khi ông quả quyết: “Nếu bệ hạ muốn hàng, hãy chặt đầu thần trước đã”. Ông tin vào sức mạnh hay đúng hơn khí thế của ba quân, ở chính ông, và sự vững vàng của nhà vua. Bởi vì vị vua này là Vua Thiền, nên có khi bị giặc đuổi trên sông nước, vẫn ung dung khắc thơ vào mạn thuyền. Theo GS Thuần thì ông Vua Thiền của chúng ta đã đưa vào trận mạc, vào chính sự, vào đời sống, vào hành động… tính không khiếp sợ của triết lý có-không trong Bát-nhã, “Bồ-tát nương trí tuệ Bát-nhã nên tâm không ngăn ngại; vì tâm không ngăn ngại nên không sợ hãi …”.

Cho nên khi Nhân Tông nói “Không” thì ngài lên Yên Tử, mà khi ngài nói “Có” thì đích thân ngài lãnh đạo chống xâm lăng. Mà đã nói “Có” thì tam thiên đại thiên thế giới đều nằm gọn trên một mũi kim, như Thiền tông nói.

Theo ý chúng tôi thì tinh thần nhập thế đời nhà Trần trong tinh thần “tùy duyên bất biến, bất biến mà tùy duyên” không phải theo quan niệm Nho giáo, một hệ thống triết học mang tính thực tiễn chính trị và xây dựng trên tư duy trật tự xã hội quân thần; khái niệm nhập thế của Thiền tông “thõng tay vào chợ” là nhằm phân biệt với khuynh hướng vô vi xuất thế của Lão Trang. Cả hai khái niệm nhập thế của Nho giáoxuất thế của Lão giáo không thể đồng nhất với khái niệm nhập thếxuất thế theo Phật giáo. Khái niệm nhập thế theo nhà Phật là trong tinh thần đã được nêu ở kinh Tương ưng bộ: “Này các Tỳ-kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần sinh, vì an lạc cho quần sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiênloài người”6 .

GS Thuần băn khoăn “Còn ở ta đâu rồi cái cái vạm vỡ của dòng thiền Yên Tử? Trong tình trạng Phật giáo phát triển bề rộng mà thiếu chiều sâu như hiện nay, những cố gắng để làm sống lại tinh túy Yên Tử của Hòa thượng Thanh Từ phải được Phật tử xem như cố gắng của chính mình. Bất cứ người Việt Nam nào hãnh diện về lịch sử nước mình đều muốn nước mình có một triều đại rực rỡ như thế, nhất là trong tình trạng xâm lấn hiện nay. Triều đại rực rỡ đó đã được xây dựng trên một văn hóa rực rỡ”.

Hãy thổi vào nền kinh tế cái sức mạnhtinh thần của nền văn hóa Đông A với những giá trị cốt lõi: tận tụy, trung thực, vô tư, chân thành, trong sáng và lành mạnh!

Chú thích:
1. Tóm tắt theo Nguyễn Thế Đăng - Xã hội hài hòa - trong Con người toàn diện - Hạnh phúc toàn diện.
2. Trần Ngọc Ninh - Đức Phật giữa chúng ta, Nxb Lá Bối, Sài Gòn 1972.
3. Cao Huy Thuần - Khi tựa gối khi cúi đầu, Nxb Tri Thức, 2017.
4. Nguyên Cẩn - Biện chứng Trần Nhân Tông, tạp chí VHPG Việt Nam 2010.
5. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2 , Nxb Khoa Học Xã Hội, 1985.
6. Tương ưng bộ kinh, tập 1, Thích Minh Châu dịch, Trường CCPHVN ấn bản, 1982

Trích từ: Văn Hóa Phật Giáo Số 306 ngày 1-10-2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2710)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2296)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2351)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3691)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2561)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2712)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3071)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2145)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2257)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2563)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2797)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2627)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2389)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2395)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 2955)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2389)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2075)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2168)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2264)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2381)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2436)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2479)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 2978)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2321)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 1927)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2439)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 1859)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2552)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2694)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2701)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2460)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2287)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2569)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2207)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 2983)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2403)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2323)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2192)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 2897)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3792)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2689)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2794)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2385)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2451)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2344)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2099)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2383)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2689)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3682)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant