Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc Sống Người Tu

04 Tháng Mười Hai 201808:24(Xem: 6524)
Cuộc Sống Người Tu

CUỘC SỐNG NGƯỜI TU

Ajaan Fuang Jotiko
Diệu Liên Lý Thu Linh

Cuộc Sống Người Tu

Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông Nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia). Mồ côi năm 11 tuổi, ông sống ở nhiều chùa, cho đến năm 20 tuổi được thọ giới xuất gia, về sau trở thành một thiền sư lớn (theo truyền thống tu tập trong rừng) ở Thái Lan.

Tỳ-kheo Thanissaro (Geoffrey DeGraff) người Mỹ, theo học thiền với Ajaan Fuang Jotiko và xuất gia năm 1976 tại Thái Lan. Hiện Tỳ-kheo Thanissaro cũng là thiền sư, chuyên trước tác và giảng dạy về thiền. Tỉnh Giác (Awareness Itself) là một trong những giáo huấn vắn tắt, thiết thực của Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, được Tỳ-kheo Thanissaro soạn tập và dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh. Xin giới thiệu đến bạn đọc xa gần.

 

***

1   “Nhiều người cho rằng tăng sĩ không làm gì cả, nhưng thực ra công việc buông bỏ các uế nhiễm là công việc khó khăn nhất trên đời.  Việc làmthế gian còn có ngày nghỉ, nhưng công việc của người tu không có lúc nào ngơi nghỉ.  Đó là thứ công việc ta phải liên tục thực hành 24 giở một ngày.  Đôi khi người tu sĩ cũng mệt mỏi, nhưng vẫn phải thực hànhNếu không, ai sẽ làm việc đó cho ta?  Đó là bổn phận của ta, chứ không phải của ai khác.  Nếu không, ta sẽ nợ đàng na thí chủ”.

2   “Dầu bạn làm gì, cũng phải trông chừng tâm.  Nếu thấy nó đi lệch đường, hãy dừng ngay lại, dầu bạn đang làm gì, và tập trung sự chú tâm.  Công việc canh giữ tâm lúc nào cũng ưu tiên trước nhất”.

3   “Pháp của Phật là akaliko – vô thời hạnLý do tại sao ta chưa thấu đạt Pháp của ngài là vì ta có quá nhiều thời gian: thời gian cho thứ này, thứ kia, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, thời gian để ăn, để ngủ…  Cả cuộc đời ta xoay vần quanh quỹ thời gian, và kết cục là ta không có cơ hội để nhìn thấy sự thật rõ ràng bên trong ta.  Nên ta phải biến sự thực hành của mình thành vô thời hạn.  Khi đó, sự thật sẽ hiện lên trong tâm ta”.

4   Thiền sư Ajaan Fuang rất kỹ lưởng trong việc sắp xếp đồ đạc đúng chỗ và giữ chúng sạch sẽ, nên ngài cũng dạy đệ tử phải như thế, vì ngài cũng đã học được những điều này từ các thầy của mình, và ngài đã biết sự ích lợi của chúng.  Ngài nói, “Nếu các con không thể quản được các thứ thô thiễn như thế, thì làm sao có thể quản được những thứ vi tế hơn, như tâm mình?”

5  Vị tăng sĩ mà biết chu toàn các nhu cầu của mình –vệ sinh thất, đun nước tắm, chăm lo bản thân khi bệnh, v.v…- phải là người biết quan sát, vì Ajaan Fuang thường sử dụng mối liên hệ thầy-trò như một phương tiện để dạy bằng hình mẫu.  Thay vì giải thích đồ gì phải để ở đâu hay phải làm những bổn phận nào với đệ tử, ngài thiền sư chỉ để các đệ tử quan sát hành động của mình.  Nếu đệ tử hiểu được ý thầy, ngài không nói gì.  Ngược lại, ngài sẽ trách phạt –nhưng cũng không giải thích phải trái.  Người đệ tử phải tự mình khám phá ra điều đó.  Như Ajaan Fuang nói, “Nếu đến mức độ mà ta phải nói cho con biết điều sai trái, chứng tỏ là thầy trò ta vẫn còn xa lạ”.

6   Một tối, một tăng sĩ ở Wat Dhammasathit nhìn thấy Ajaan Fuang đang một mình, lượm các vỏ cây quanh chỗ xây dựng tháp và sắp xếp lại đàng hoàng.  Ông vội chạy đến làm giúp, rồi hỏi, “Thưa Sư, những việc như thế này, ngài không nên làm một mình.  Còn nhiều người khác nữa.  Sao sư không gọi chúng con đến giúp?”

“Ta đang có người giúp đó chứ,” Ajaan Fuang trả lời trong khi vẫn tiếp tục lượm vỏ cây.

“Ai đâu, thưa sư?”, người đệ tử hỏi, sau khi nhìn quanh và không thấy ai hết.

“Ngươi đó”.

7   Khi tôi trở lại Thái Lan vào năm 1976 để thọ đại giới, Ajaan Fuang cảnh báo tôi hai điều:

1)   “Làm một thiền giả không có nghĩa là chỉ ngồi nhắm mắt.  Làm việc gì con cũng phải sáng suốt”.

2)    “Nếu con muốn học hỏi, con phải suy nghĩ như một kẻ cắp, và phải tìm cách đánh cắp sự hiểu biết cho mình.  Điều đó có nghĩa là con không thể mong đợi sư dạy cho con mọi thứ.  Con phải ghi nhận hành động của sư và lý do hành động –vì tất cả mọi thứ sư làm đều có lý do”.

 

8   Mối liên hệ giữa một tăng sĩ và các thí chủ cần phải cân bằng.  Ajaan Fuang thường nhắc nhở các đệ tử xuất gia của mình như sau, “Hãy nhớ, không ai mướn ngươi làm tu sĩ.  Không phải ta xuất gia để làm tôi tớ cho người”.  Nhưng nếu có tăng sĩ nào phàn nàn rằng những người làm công quả ở chùa không biết nghe lời, ngài sẽ nói, “Con xuất gia để có người phục dịch sao?”

9   “Chúng ta sống nhờ vào sự hỗ trợ của người khác, vì thế không nên làm gì để họ nản lòng”.

10   “Người tu thọ thực phẩm cúng dường, nhưng không tu hành đàng hoàng, sẽ tái sinh làm trâu bò, phải cảy ruộng vất vả để trả món nợ đó”.

11   “Đừng nghĩ rằng những giới luật nhỏ không quan trọng.  Như ngài Ajaan Mun có lần nói, phiến gỗ không bao giờ bay vào mắt, nhưng bụi gỗ thì có thể -chúng có thể làm ta mù mắt”.

12   Các phụ nữ phương Tây thường bực bội khi họ biết rằng tăng sĩ không được phép đụng chạm họ, và họ thường coi đó là bằng chứng cho việc Phật giáo kỳ thị phụ nữ.  Nhưng Ajaan Fuang giải thích điều đó như sau, “Lý do Đức Phật không cho phép tăng sĩ được chạm đến người phụ nữ không phải vì họ có điều gì không tốt.  Nhưng lý do là vì các tăng sĩ có điều không tốt: Họ vẫn còn các tâm uế nhiễm, do đó họ phải được kiềm chế”.

13   Đối với những ai chọn đời sống xuất gia, người khác phái là cám dỗ lớn nhất khiến họ phải rời bỏ con đường đạo.  Nếu Ajaan Fuang dạy các tăng sĩ, ngài sẽ nói, “Phụ nữ giống như dây leo.  Lúc đầu, họ có vẻ mềm yếu, nhẹ nhàng, nhưng nếu con để họ bám vào con, họ sẽ quấn quanh con cho đến khi con không còn cựa quậy, cuối cùng họ sẽ xiết chết con”.

Khi dạy các tu nữ, ngài Ajaan Fuang sẽ cảnh báo họ về đàn ông.  Có lần một tu nữ định rời chùa, về nhà vì biết rằng cha cô đã chuẩn bị cho cô lập gia đình.  Cô thưa chuyện với ngài thiền sư và xin một lời khuyên.  Ngài nói, “Hãy tự hỏi mình.  Con có muốn sống trong rọ hay tự do ở ngoài?”  Kết quả, cô quyết định không chui vào rọ.

14   “Nếu người tăng sĩ nhận thấy mình đang nghĩ về tính dục, hãy sờ tay lên đầu để tự nhắc nhở mình là ai”.

15   Ajaan Fuang thường kể nhiều câu chuyện về thời gian sống với thầy minh, ngài Ajaan Lee.  Một trong những câu chuyện tôi tâm đắc như sau:  Có lần một nhóm đệ tử ở Bangkok của ngài Ajaan Lee tổ chức đi hành thiền với ngài trong rừng.  Họ hẹn gặp tại Hua Lampong, nhà ga chính tại Bangkok, để đáp tàu đi Lopburi ở phương Bắc.  Khi cả nhóm gặp nhau ở sân ga, họ nhận ra rằng có nhiều người mang theo ít nhất hai va-li lớn những đồ ‘cần dùng” cho chuyến đi.  Ngay cả các vị tăng sĩ ở Bangkok cũng mang rất nhiều hành lý.  Thấy vậy, ngài Ajaan Lee không nói gì, chỉ dẫn đoàn đi về hướng Bắc dọc theo đường ray tàu hỏa.  Vì ngài đi bộ, cả nhóm phải đi theo, nhưng chẳng bao lâu thì những người khuân nhiều hành lý bắt đầu than thở, “Thưa Sư, sao ngài bắt tụi con đi bộ?  Tụi con phải mang quá nhiều hành lý nặng!”

Lúc đầu Ajaan Lee không trả lời, nhưng cuối cùng khi vẫn tiếp tục đi bộ, ngài bảo họ, “Nếu nặng, thì khiêng làm gì?”  Khi nhóm đệ tử hiểu ra ý ngài, họ dừng lại, bỏ bớt đi những thứ không cần thiết trong hành lý của mình.  Khi cả nhóm đến trạm tàu kế tiếp, Ajaan Lee nhận thấy họ đã làm gọn

16   “Khi sống trong chùa, hãy xem như ta đang sống một mình.  Điều đó có nghĩa là khi ta đã hoàn tất các trách nhiệm chung với chúng –thọ trai, đọc kinh, quét dọn, vân vân- ta không phải liên hệ với bất cứ ai.  Hãy trở về thất để hành thiền”.

“Khi sống một mình, hãy xem như ta đang sống trong tu viện: Hãy lập thời biểu sinh hoạt, và tuân thủ nó”.

17   Khi tôi đến Wat Asokaram –một tu viện rất lớn- để qua mùa an cư đầu tiên của tôi, Ajaan Fuang bảo, “Nếu người ta hỏi con bằng tiếng Thái, hãy trả lời bằng tiếng Anh.  Nếu họ hỏi bằng tiếng Anh, hãy trả lời bằng tiếng Thái.  Sau một lúc, người ta sẽ mệt mỏi khi nói chuyện với con, họ sẽ để con yên mà hành thiền”.

18   “Cũng tốt, nếu phải sống trong một tu viện mà không phải ai cũng quan tâm đến việc tu hành rốt ráo, vì điều đó dạy con phải dựa vào chính mình.  Ngược lại, nếu con chỉ sống với các vị thiền giả quá nghiêm mật, con sẽ không thể sinh tồn trong bất cứ nơi nào khác”.

19   “Trong tu viện, chúng ta vẫn giữ lại những người khó chịu như một cách để kiểm tra xem nếu các uế nhiễm của ta đã thực sự được xóa bỏ”.

20   “Mục đích của việc tuân giữ các giới luật nghiêm khắc là để bào mòn các uế nhiễm của ta.  Nếu ta chỉ giữ chúng với ý định gây ấn tượng đối với người khác, thì tốt hơn là ta không nên giữ chúng”.

21   Về việc nhịn ăn như một phương cách giúp ta hành thiền tốt hơn: “Với người này, phương cách đó thích hợp, với người khác thì nó có tác dụng ngược lại- họ càng nhịn ăn, thì uế nhiễm của họ càng tăng.  Không phải là ta bỏ đói cái thân, thì các uế nhiễm của ta cũng bị đói, vì chúng không phải đến từ thân.  Chúng từ tâm ta mà ra”.

22   “Trong kinh có đoạn Đức Phật hỏi, ‘Ngày và đêm qua đi, qua đi.  Hiện tại con đang làm gì?’ Vậy ta có câu trả lời gì cho Ngài?”

23   “Nếu ta đi dạy người khác trước khi việc tu tập của mình đã chuẩn, thì ta gây hại nhiều hơn là làm tốt”.

24   “Rèn luyện một thiền sinh cũng giống như rèn một võ sĩ: Ta tấn công ít và không đấm họ quá đau đến độ họ không chịu nổi.  Nhưng khi họ đánh trả, hãy để họ ra đòn thật mạnh”.

25   Lần đầu tiên khi tôi giảng pháp, Ajaan Fuang bảo tôi: “Hãy tưởng tượng con có cây kiếm trong tay.  Nếu có ai trong đám thính giả có ý phán xét con, hãy cắt đầu họ”.

26   Trước đây từ Bangkok đến Wat Dhammasathit, phải mất cả ngày, vì đường sá lúc đó rất xấu và quanh co hơn giờ nhiều.  Một tối, có một phụ nữ mướn xe đi từ Bangkok đến chùa để xin Ajaan Fuang lời khuyên về những vấn đề bà đang gặp phải trong cuộc sống gia đình, rồi sau đôi giờ tư vấn, bà lại lên xe trở về lại chỗ cũ.

Sau đó, Ajaan Fuang nói với tôi, “Cũng có cái hay khi ta sống tận nơi này.  Nếu ta ở gần Bangkok, những người rảnh rỗi, không biết sử dụng thời gian, sẽ đến đây chuyện vãn cả ngày làm mất thì giờ của ta.  Trái lại, dầu chúng ta ở xa xôi, mà Phật tử đã cất công đến đây, chứng tỏ là họ thực sự cần ta giúp đỡ.  Nên dầu phải mất bao nhiêu thời gian với họ, cũng không thành vấn đề”.

27   “Khi có Phật tử đến viếng, sư cho họ ngồi xuống, hành thiền trước để họ biết cách làm cho tâm yên tĩnh.  Sau đó ta mới để họ trình bày vấn đề mà họ quan tâm, muốn chia sẻ với sư.  Nếu ta cố gắng thảo luận các vấn đề mà tâm họ chưa lắng đọng, thì không có cách gì giúp họ hiểu”.

28   “Nếu có người nghĩ là họ đã chứng ngộ, trong khi sự thật không phải vậy, thì ta không nên phí hơi sức cố gắng sửa chữa họ.  Vì nếu họ không có lòng tin ở ta 100% , thì ta càng phân phải trái với họ, họ càng bám chặt vào ý kiến riêng của mình.  Nếu họ có lòng tin nơi ta, thì chỉ cần một hay hai câu nói, họ sẽ thức tỉnh”.

29   Có lần thân phụ của một vị sư đang sống ở chùa của ngài Ajaan Fuang, viết thư khuyên con trai hãy cởi bỏ y áo, trở về nhà, tiếp tục việc học hành, rồi đi làm, gầy dựng gia đình, để có một cuộc sống bình thường, hạnh phúc như bao người khác trên thế giới.  Vị tăng sĩ trình bày việc này với Ajaan Fuang.  Ngài nói, “Cha con nói là hạnh phúc của ông rất đặc biệt- nhưng thực sự loại hạnh phúc đó là gì?  Cũng là đống đồ hôi thối mà con đã để lại đằng sau khi đi xuất gia.  Có thứ hạnh phúc nào tốt hơn hiện tại không?”

 

Diệu Liên Lý Thu Linh -9/2018

(Chuyển ngữ từ tiếng Anh, The Celibate Life, trích từ quyển AWARENESS ITSELF, nguồn:

http://accesstoinsight.org/lib/thai/fuang/itself.html, Metta Forest Monastery, P.O.Box 1409, Valley Center, CA 92082, USA)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9200)
Kinh đô ánh sáng, thành phố mộng mơ của Pháp quốc vào mùa hè năm nay đã là điểm hẹn của những người con Phật đa số là tỵ nạn từ bốn châu kéo về.
(Xem: 9864)
Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe,
(Xem: 11176)
Ăn chay theo Phật giáo là một chế độ ăn uống chỉ gồm những thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật (trái cây, rau quả, v.v...), có hoặc không ăn những sản phẩm từ sữa, trứng hoặc mật ong...
(Xem: 9708)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9227)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 9967)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 10015)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9200)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13152)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10082)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10366)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10822)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 8983)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10178)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10126)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9250)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 10933)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 14972)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11694)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10024)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12573)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10789)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10311)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10657)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10569)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10435)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9905)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9192)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9248)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11172)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9517)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 12974)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12535)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9059)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9468)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9503)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9462)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9039)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8864)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10217)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8507)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8198)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15403)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10657)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10667)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8795)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8866)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8460)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 11982)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10734)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant