Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xuân Hạnh Phúc

03 Tháng Hai 201917:45(Xem: 6244)
Xuân Hạnh Phúc

XUÂN HẠNH PHÚC


Thích Trừng Sỹ

Xuân Hạnh Phúc

        Chúng ta đều biết một năm có mười hai tháng, một tháng có bốn tuần, một tuần có bảy ngày đêm, một ngày đêm có hai mươi bốn giờ đồng hồ, một giờ có sáu mươi phút v.v… luôn trôi qua trong từng sát na của cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mặc dầu thời gian mãi trôi qua trôi qua, nhưng Xuân Hạnh Phúc thì luôn hằng hữu trong ta và trong bạn, trong gia đình và trong Tự Viện, trong khắp mọi nơi và mọi chốn. 

The Happy Spring

  We all know that a year with twelve months, a month with four weeks, a week with seven days and nights, a day and night with twenty-four hours, an hour with sixty minutes, etc., always elapses in every moment of our daily lives. Although time has constantly been elapsing, the Happy Spring is eternally present in you and in me, in families and in Dharma Centers, in all places, and everywhere.

Xuân Hạnh Phúc, được gọi là Xuân Di Lặc hay Xuân an lạc, có mặt đích thực nơi chúng ta. Hễ khi nào chúng taý thức làm chủ được hơi thở, lời nói, ý nghĩviệc làm của chúng ta một cách chánh niệm và tỉnh giác ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại

The Happy Spring, called as the Spring of Maitreya Buddha or the Peaceful Spring, is authentically present in us. Whenever we are aware to keep control of our breaths, words, thoughts, and actions mindfully and consciously right here and right now in the present life.     

Dựa vào tựa đề của bài viết này, khi bắt gặp từ “Hạnh Phúc,chúng ta có thể tìm hiểu nó qua nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, đặc biệt qua những lời Kinh, tiếng kệ, xuyên qua những tư tưởngý nghĩa Phật pháp trong bài Kệ của Kinh Pháp Cú số 194 như sau:

Relying on the title of this writing, when encountering the word “Happiness,” we can find out it through varied aspects and angles, especially through Sutras, verses, thoughts, and the meanings of the Buddhadharma in the Dhammapada, Verse 194 as follows:   

 

Hạnh phúc thay Đức Phật ra đời,

Hạnh phúc thay giáo Pháp cao minh,

Hạnh phúc thay Tăng đoàn an lạc,

Hạnh phúc thay Bốn Chúng đồng tu.”[1]

 

Happy is the birth of the Buddha,

Happy is the noble Dhamma,

Happy is the harmonious Sangha,

Happy is the Fourfold Community in peace and concord together.”[2]

Như quý vị biết hạnh phúc được cảm nhận qua nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, nhưng chung quy lại, hạnh phúc được cảm nhận tốt nhứt là hạnh phúc được xuất phát từ “thân an lạc” và “tâm giải thoát” của mỗi chúng ta. Đó là món quà quý giá nhất mà chúng ta có thể hiến tặng nó cho chúng ta và cho những người thương của chúng ta nhân dịp Xuân mới.  Căn cứ bài kệ Pháp Cú trên, chúng ta phát hiện từ “hạnh phúc”có mặt trong các lời dạy của Đức Phật, chúng ta lần lượt tìm hiểu các ý nghĩa của nó dưới đây.     

As you know, happiness gets felt via many various aspects and angles, but happiness which is felt best is happiness derived from “the body of peacefulness”and “mind of liberation” of each one of us. That is the most precious gift that we can offer it to ourselves and to our loved ones on occasion of the new Spring. Based on the above verse of Dhammapada, we discover the word “happiness” to be present in the Buddha’s teachings, we in turn learn more about its meanings below.

Trong tiếng Phạn hoặc tiếng Pāli, hạnh phúc có từ gốc là “Sukha.”[3] Theo Monier-Williams (1964), “Sukha” có hai từ riêng biệt: “Su” và “Kha.” “Su” có nghĩa là “tốt” và “Kha” có nghĩa là “trục xe.”“Sukha” có nghĩa đen là “trục xe tốt.” Ví dụ, xe hơi có trục xe tốt thì xe mới có thể chạy nhanh, chạy xa, và chạy lâu bền được. Dĩ nhiên, nó phải còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nữa như bánh xe, xăng, nhớt, v.vv… Cũng như thế, khi có “Chân Hạnh Phúc,chúng ta có thể tu tậpchuyển hóa các hạt giống bất thiện thành các hạt giống thiện. Chúng ta có thể thực tập rải các tâm từ, bi hỷ, xả đến với mọi người và mọi loài để giúp đời them vui và bớt khổ.   

In Sanskrit or Pāli, happiness with its root is “Sukha.”[4] According to Monier-Williams (1964), “Sukha” has two separate words: “Su” and “Kha.” “Su” means “good” and “Kha” means “axle.” “Sukha” literally means “good axle.” For example, a vehicle with a good axle can run fast, far, and durably. Of course, it must still depend additionally on other factors such as wheels, gas, engine oil, etc. Likewise, when having “True Happiness,” we can practice the Dharma and transform unwholesome seeds into wholesome seeds. We can spread the cultivated hearts of loving-kindness, compassion, joy, and inclusiveness to all living things and living beings to help add happiness and alleviate suffering for life.           

Khi thực hiện những việc ấy tốt đẹp, chúng ta phải có những phương pháp thực tập cụ thể như lời nói ái ngữ, lắng nghe, lạy Phật, niệm Phật, hành thiền trong chánh niệm và tỉnh giác mỗi ngày để nạp lại bình điện tâm linh của chúng ta. Từ đây, chúng ta có thể thưởng thức được hương vị an lạc của việc thực tập, chúng ta có thể đem lại những hoa trái an lạchạnh phúc tới cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

When performing so well, we have to have the methods of specific practice such as loving speech, deep listening, prostration of the Buddha, recitation of the Buddha’s names, Meditation practice in mindfulness and awareness daily to recharge our spiritual battery. From this, we can enjoy the peaceful taste of practice, we can bring the flowers and fruits of peaceful joy and happiness to the many right in the present life.

  Chúng ta biết hạnh phúc, mặc trái của nó là “bất hạnh” và “khổ đau” (Dukkha). Tu tập là một quá trình để chúng ta nhận diệnchuyển hóa bất hạnh và khổ đau thành an vui và hạnh phúc. Trong thuật ngữ Phật học, nghĩa đích thực của “Sukha” là “Chân Hạnh Phúc.” Trong “Kinh Chân Hạnh Phúc,” phần V của Kinh Tập, thuộc Kinh Tiểu Bộ, đề cập tới các giá trị của “Kinh Chân hạnh Phúc” mà chúng ta có thể học, hiểu, áp dụng,  và thưởng thức được hương vị an lạc của Phật pháp từ đầu mùa Xuân của Năm Mới cho tới cuối mùa Xuân của cuộc đời. Với tâm hân hoanthoải mái, xin mời quý vị cùng nhau đọc và chiêm nghiệm bài “Kinh Chân Hạnh Phúc” này cho vui.

We know happiness; its revere is “unhappiness” and “suffering.” Cultivation is a process so that we can recognize and transform unhappiness and suffering into peaceful joy and happiness. In Buddhist terminology, the authentic meanings of “Sukha” is “True Happiness.” In the “Sutta of True Happiness,” (Mangala Sutta) the part V of Sutta-Nipāta, belonging to Khuddaka Nikāya, referring to the values of “True Happiness Sutta” we can learn, understand, apply, and enjoy its peaceful taste of the Buddhadharma from the early Spring of the New Year up to the end of Spring of life. With our joyful and relaxed minds, we would like to invite you all to read and contemplate the “Sutta of True Happiness” together happily.

“Như vầy tôi nghe. Một thời đức Thế Tôn ở tại Savatthi, trong rừng Jeta, vườn Anathapindika. Có một thiên nhân, khi đêm gần tàn, với dung sắc thù thắng chiếu khắp rừng Jeta, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, kính lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên, thiên nhân ấy nói lên bài kệ trước Đức Thế Tôn như sau:

“Thus have I heard. Once the World-Honoured One was dwelling in Savatthi at Jeta’s Grove, Anathapindika’s garden. When the night was nearly ended, there was a certain deity with his surpassing radiance who illuminated the entirety of Jeta’s Grove, approached and bowed down to the World-Honoured One. After having paid homage to the World-Honoured One, the deity stood at one side and addressed the World-Honoured One in verse as follows:


''Chư thiên và loài người,
Suy nghĩ về hạnh phúc,
Ước mong được hạnh phúc,
Chân hạnh phúc là gì?

Xin Thế Tôn chỉ dạy.

Deities and human beings

That think about happiness,

Wish to obtain happiness

What is true happiness?

Invite the World-Honored One to teach it.

Thế Tôn đáp kệ rằng:

Kẻ si mê nên tránh,
Bậc hiền đức phải gần,
Cung kính người đáng kính,
Ấy là chân hạnh phúc.

He replies with the verse:

Avoiding the foolish,

Associating with the wise,

Paying homage to those who are worthy of homage,

This is true happiness.

Chọn nơi lành mà ở,
Đời trước đã tạo phúc,
Nay giữ lòng thẳng ngay,
Ấy là chân hạnh phúc.

Choosing a wholesome place to reside,

Having made merits in past life,

Keeping one’s heart right and straight,

This is true happiness.

Hiểu rộng và khéo tay,
Giữ tròn các giới luật,

Nói những lời hòa ái,
Ấy là chân hạnh phúc.

Understanding broadly and being skillful in handicraft,

Observing the Precepts perfectly,

Talking together with loving speech,

This is true happiness.

Cung dưỡng cha và mẹ,
Yêu mến vợ/ chồng và con,
Không vương vấn phiền hà,
Ấy là chân hạnh phúc.

Serving mother and father,

Cherishing spouse and children,

Not being attached to trouble,

This is true happiness.  

Cho và sống đúng cách,
Nên giúp đỡ bà con,
Hành động không chê trách,
Ấy là chân hạnh phúc.

Giving and living in integrity,

Helping one’s relatives,

Deeds are no blameful,

This is true happiness.

Ngăn trừ điều ác xấu,
Dứt bỏ thói rượu chè,
Chuyên cần trong Chánh Đạo,
Ấy là chân hạnh phúc.

Preventing evil,

Giving up intoxicants,

Being assiduous in the right way,

This is true happiness.

Kính nhường và khiêm tốn,
Biết đủ và nhớ ơn,

Tuỳ thời học đạo lý, 
Ấy là chân hạnh phúc.

Being respectful and humble,

Knowing contentment and gratetitude,

Learning the Dhamma on timely occasions,

This is true happiness.

Nhẫn nhục vâng ý lành,
Viếng thăm bậc tu hành,
Tuỳ thời bàn luận đạo,
Ấy là chân hạnh phúc.

Being patient and obedient,

Visiting monks and nuns,

Discussing the Dhamma on timely occasions,

This is true happiness.

Trong sạch và siêng năng,
Suốt thông các chân lý,
Thực hiện vui Niết Bàn,
Ấy là chân hạnh phúc.

Being pure and diligent,

Undertanding the Noble Truths clearly,

Carrying them out and being happy with Nibbana

This is true happiness.  

Tiếp xúc với thế gian,
Giữ lòng không sa ngã,
Không sầu nhiễm bình an,
Ấy là chân hạnh phúc.

Being in touch with the world,

Keeping one’s mind unshaken,

Sorrowless, dustless, and peaceful,

This is true happiness.  

 

Như thế mà tu hành,
Việc gì cũng thành tựu,
Ở đâu cũng an lành,
Ấy là chân hạnh phúc.[5]

Those who train in the aforesaid teachings like that,

Can easily achieve anything,

 Live peacefully in any place.

This is true happiness.”[6]

        Qua bài “Kinh Chân Hạnh Phúc,” chúng ta biết hạnh phúcgiá trị đích thực khi nó được cảm nhận bằng thân an lạc và bằng tâm giải thoát. Mình có thể viết lại là “hạnh phúc về thân” và “hạnh phúc về tâm.

Via the “Sutta of True Happiness,” we know happiness has the authentic values when it gets felt by our peaceful bodies and liberated minds. We can rewrite this as “happiness about our bodies” and “happiness about our minds.

        “Hạnh phúc về thân”có nghĩa là khi làm thân người, chúng ta may mắn có đầy đủ hai tay, hai chân, mắt, tai, mũi, lưỡi, v.v… Qua việc áp dụngthực hành Phật pháp hằng ngày, chúng ta có thể thưởng thức được pháp lạc khi chân, tay của chúng ta có đầy đủ sức khỏe để đi thiền, ngồi thiền, và thở thiền trong chánh niệm. Mắt ta còn sáng để nhìn thấy được người thương của mình đang hiện diện và giúp đỡ bên nhau. Tai ta còn rõ để nghe Pháp thoại và tiếng chim hót. Mũi ta còn khỏe để thở vàothở ra chánh niệm và tĩnh thức. Lưỡi ta còn khỏe để nếm được hương vị của pháp lạc.

Happiness about our bodies” means when making human bodies, we are fortunate to have full hands, legs, eyes, ears, nose, tongue, etc. Via applying and practicing the Buddhadharma daily, we can enjoy the Dharma happiness when our hands and legs have enough health to walk in meditation, sitting in meditation in mindfulness. Our eyes are still bright to see our loved ones being present and helping each other. Our ears are still clear to listen to the Dharma talk and hear bird singing. Our noses are still healthy to breathe in and out mindfully and consciously. Our tongues are still healthy to taste the flavors of Dharma happiness.

Hơn nữa, “hạnh phúc về thân”có nghĩa là chúng ta ý thức tôn trọng mạng sống của người và của muôn vật, bảo vệ tài sản của người, sống đời sống an vui và hạnh phúc bằng cách nói lời lợi ích, ái ngữdễ thương đến với mọi người và mọi nhà. Ý thức không sử dụng các chất ma túy, rượu, bia, hút thuốc, các việc tiêu thụ phim, ảnh, báo chí bạo động và đồi trụy. Chúng ta nên dành nhiều thời gian để làm các việc từ thiện như phát tâm xây dựng cầu cống, đường xá, giúp các học sinh nghèo, và những gia đình neo đơn và túng thiếu. Như vậy, “hạnh phúc về thân” có nghĩa là chúng ta sống và làm việc lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống hiện tại.

Moreover, “happiness about our bodies” means we are aware to observe living things and living beings, protect human properties, live a life of peaceful joy and happiness by saying words of usefulness, love, cuteness to everyone and every home. Aware not to take varied kinds of narcotics, wine, beer, smoking, consumption of violent and depraved films, photos, and newspapers. We should spend time doing charitable activites such as devotion to building bridges, roads, helping poor students, and lonely and needy families. Thus, “happiness about our bodies” means we live and do the benefits for others and ourselves right in the present life.     

Mặc khác, xuyên qua việc học, hiểu, ứng dụng, và nếm được Pháp hỷPháp lạc vào trong đời sống hằng ngày, “hạnh phúc về thân” không những dành cho những người có đầy đủ tay, chân, mắt, tai, mũi, v.vv…, mà còn dành cho những người thiếu một trong những chi phần quý giá nhất của con người. Những người thiếu may mắn ấy họ cũng có thể tiếp cận Phật pháp từ người hướng dẫn hoặc nghe bằng tai, nói và hát bằng miệng, hoặc cảm nhận bằng ý v.v… ấy vậy mà họ có thể nếm được pháp lạc nơi tự thân.

On the other hand, through learning, understanding, applying, and enjoy the Dharma joy and Dharma happiness in the daily life, “happiness about their bodies” is not only intended for those having enough hands, legs, eyes, ears, noses, etc., but also for those lacking one of their most precious parts. Unfortunate people who can also approach the Buddhadharma from an instructor whether hear it by ears, say and sing it by their mouths, or feel it by their minds, etc., so they can enjoy the Dharma happiness from themselves.         

Người hướng dẫn Phật pháp có thể là vị xuất sĩ, cư sĩ, thầy, cô, hoặc có thể là vị thiện nguyện, hướng dẫn hành giả tới bờ thanh lương, thơm hương, tức là tới bờ an vui và hạnh phúc. Vị ấy có thể là một Đức Phật Di Lặc, thương yêuhiểu biết, sống với cái tâm hỷ, xả, sống vì người khác và sống cho người khác. 

The instructor of the Buddhadharma, who can be a monastic, lay person, a teacher, or a volunteer, instruct practitioners to go to the shore of coolness, fragrance, that is, to that of peaceful joy and happiness. That instructor, who can be a Maitreya Buddha, loves and understand, lives with his/her heart of joy, inclusiveness, and lives for others.

Tiếp đến là “hạnh phúc về tâm;” “hạnh phúc về tâm” có nghĩa là chúng ta có đủ duyên lành học, hiểu, hành trì Phật pháp hằng ngày, và thưởng thức được hương vị an lạc của nó. Chúng ta có thể tu tậpchuyển hóa các hạt giống không lành mạnh nơi tâm chúng ta như hạt giống buồn, giận, tham lam, ganh tị, si mê…và chúng ta có thể vun bồi và tưới tẩm các hạt giống tốt và lành mạnh nơi tâm chúng ta như hạt giống từ, bi, hỷ, xả, v.v…

Next is “happiness of our minds;” “happiness of our minds” means we have enough good conditions to learn, understand, practice the Dharma, and enjoy the feelings of its peaceful joy. We can cultivate and transform the unwholesome seeds of our minds, such as the seeds of sorrow, anger, greed, envy, delusion, etc., and we can cultivate and water the wholesome and good seeds of our minds, such as the seeds of loving-kindness, compassion, joy, and that of equanimity, etc.

Qua những gì được thảo luận trên đây, thân và tâm được phân chia như vậy là để giúp chúng ta dễ hiểu. Chứ thật ra, thân và tâm của con người là một thực thể nhứt như không thể tách rời ra được, như nước với song, như hình với bóng, chỉ một mà thôi. Hạnh phúc của thân chính là hạnh phúc của tâm, và ngược lai, hạnh phúc của tâm cũng chính là hạnh phúc của thân. Tu là để chúng ta đạt được an lạchạnh phúc từ nơi thực tập ngon lành của thân, tâm. Thân an lạc thì tâm an vui, và ngược lại, tâm an vui thì thân an lạc. Nếu thân và tâm không an lạc thì sức mấy mà chúng tahạnh phúc.     

Via what are above discussed things, the bodies and minds are divided like this, is to help us easily understand, but in fact, human body and mind are an only unique entity inseparably like water and waves, like image and its shadow. Happiness of the body is that of the mind, and vice versa, happiness of the mind is also that of the body. Cultivation is for us to achieve peaceful joy and happiness from our well-practiced bodies and minds. The peaceful body is the peaceful mind, and vice versa, the peaceful mind is the peaceful body. If our bodies and minds are unpeaceful, however hard we try, we never obtain happiness.  

đệ tử của Đức Phật, chúng ta thường xuyên học và áp dụng những lời dạy thiết thực của Người vào trong đời sống hằng ngày của mình để chúng ta có thể hiến tặng mùa “Xuân Hạnh Phúc” cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống hiện tại. Để diễn tả thêm những ý nghĩa của thân và tâm, xin mời quý vị cùng nhau thương thức bài “thơ Hạnh Phúc” của một vị nữ Xuất sĩ ca ngợi về sự may mắn được làm người hạnh phúc dưới đây cho vui.

As the Buddha’s disciples, we frequently learn and apply his practical teachings in our daily lives in other that we can offer the “Happy Spring” to others and ourselves right in the present life. To describe the additional meanings of our bodies and minds, please enjoy a “Poem of Happiness” of a Nun praising the luck for being happy people below happily.  

Đức Thế Tôn cao cả tuyệt vời!

Từ bi thị hiện khắp muôn nơi,

Ban cho nhân loại niềm vui sống,

Cho con hạnh phúc được làm người.

Lắng nghe chánh pháp vơi sầu khổ,

Diệt tận nguồn mê trí sáng ngời,

Hạnh phúc trong muôn ngàn hạnh phúc,

Làm người hạnh phúc nhất trên đời”[7]

“How wonderful the World-Honored One is!

His loving-kindness and compassion spreading all over place,

Granting living beings joy of life,

Giving us happiness to make human bodies.

Listening to the Dharma to alleviate grief and suffering,

Destroying ignorance to let one’s mind be illuminated by wisdom,

Happiness in a myriad of happiness,

Making people be the happiest in the world” [8]

Hơn nữa, ở bài thi kệ Pháp Cú số 194 được đề cập ở trên, chúng ta có thể phát hiện từ “hạnh phúc”có mặt trong toàn bài kệ. Hàng thứ nhất của câu kệ Pháp Cú này là “Hạnh phúc thay Đức Phật ra đời.Chúng ta biết mục đích ra đời của đức Phật là để đem lại an lạchạnh phúc cho chư thiênnhân loại. Đức Phật, Bậc tỉnh thứcgiác ngộ trọn vẹn, có thể hiểu là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và cũng có thể hiểu là Đức Phật Di Lặc trong ngữ cảnh mùa Xuân, Tết.

Moreover, in the verse 194 of the Dhammapada mentioned above, we can find the word “happiness” is present in the whole of the verse. The first line of this Dhammapada verse is that “Happy is the birth of the Buddha.” We know the purpose of the Buddha’s birth is to bring peaceful joy and happiness to gods and living beings. The Buddha, the Fully Awakened or Enlightened One, can be understood as the Sakyamuni Buddha and can be also understood the Maitreya Buddha in the context of Spring, Tết.

Trong ngữ cảnh mùa Xuân, chúng ta có thể hiểu Đức Phật Di Lặc là một Đức Phật hoan hỷ, xuất hiện vào ngày đầu của Năm Mới để đem lại an lạchạnh phúc cho mọi người và mọi nhà. Tu học Phật Pháp tinh chuyên, mỗi chúng ta có thể là mỗi Đức Phật Di Lặc để hiến tặng mùa Xuân Hạnh Phúc cho nhiều người.  

In the context of the Spring, we can understand the Maitreya Buddha as the happy Buddha, who appears in the first day of the New Year to bring peaceful joy and happiness to everyone and every family. Practicing the Buddhadhamma diligently, we each can be each Maitreya Buddha to dedicate the Happy Spring to many people.

Phật là Thầy chỉ đạo,

Bậc tỉnh thức vẹn toàn,

Tướng tốt đoan trang,

Trí và bi viên mãn."[9]

The Buddha is the Teacher showing the way,

The fully Awakened One,

Whose noble and respectable marks,

Perfect wisdom and compassion.”[10]

 

Hàng thứ hai của câu kệ Pháp Cú là “Hạnh phúc thay giáo pháp cao minh.” Giáo Pháp cao minh có nghĩa là Khổ Thánh Đế, Khổ Tập Thánh Đế, Khổ Diệt Tập Thánh Đế, và Con đường đưa tới khổ Diệt Tập Thánh Đế.[11] Phật pháp này có khả năng đưa chúng ta tới mùa Xuân Hạnh Phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân. Nếu chúng ta áp dụnghành trì Phật pháp chánh niệm vào trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta có thể đem lại an vui và hạnh phúc cho nhiều người. Chính vì thế mà Phật pháp được mệnh danh là “vượt thoát thời gian, thiết thực hiện tại, xa lìa nhiệt não, đến để mà thấy, đến để mà nghe, đến để mà hiểu, đến để thực hành, và đến để thưởng thức hương vị an lạc của chánh pháp.”[12]

The second line of the Dhammapada verse is that “Happy is the Noble Dhamma.” The Noble Dhamma means the Noble Truth of Suffering (Dukkha-Ariya-Sacca), the Noble Truth of the Origin of Suffering (Dukkha-Samudaya-Ariya-Sacca), the Noble Truth of the Cessation of Suffering (Dukkha-Nirodha-Ariya-Sacca), and the Path leading to the Noble Truth of the Cessation of Suffering (Dukkha-Nirodha-Gāminī-Paṭipadā-Ariya-Sacca).[13] The Dhamma has the ability to lead us to the Spring of authentic Happiness for others and for us. If we practice and apply the Dhamma mindfully in our daily lives, we can bring peaceful joy and happiness to many people. Therefore, the Buddhadhamma is called as “beyond time, practical in the present, avoid afflictions, come and see, come and hear, come and understand, come and practice, and come and enjoy the taste of the Dhamma peace and joy.”[14]

Thực vậy,”Giáo Pháp cao minh” cũng có nghĩa là khi nào chúng ta áp dụnghành trì nó một cách siêng năng vào trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta có thể gặt hái những hoa trái an lạchạnh phúc thiết thực ở hiện đời.

Pháp là con đường sáng,

Dẫn người thoát cõi mê,

Đưa con trở về,

Sống cuộc đời tĩnh thức.”[15]

Indeed, “the Noble Dhamma” also means whenever we apply and practice it assiduously in our daily lives, we can reap the fruits and flowers of peaceful joy and happiness practically in the present life.  

The Dhamma which is the bright way,

Leads people to escape from the realm of delusion,

Leads one to coming back one’s spiritual homeland,

In order to live one’s life of awakening.”[16]

 

        Hàng thứ thứ ba của câu kệ Pháp Cú này là “Hạnh phúc thay Tăng đoàn an lạc.Tăng đoàn là những vị đệ tử của Đức Thế Tôn, những vị hành giả tâm linh, nguyện sống cuộc đời an lạctỉnh thức, nguyện theo con đường hòa bình, giác ngộ, và giải thoát của Đức Thế Tôn, và nguyện chăm sóc và nuôi dưỡng tình huynh đệ và tình thầy. “Tăng Đoàn an lạcgồm có những vị xuất Sĩ và Cư sĩ nguyện học, hiểu, thực hành, và ứng dụng Phật pháp hằng ngày để đem lại lợi ích cho nhiều người.

Tăng là Đoàn thể đẹp,

Cùng đi trên đường vui,

Tu tập giải thóat,

Làm an lạc cuộc đời.”[17]

The third line of this Dhammapada verse is that “Happy is the harmonious Sangha.” The Sangha are the World-Honored One’s disciples, spiritual Practitioners, who vow to lead their lifes of peaceful joy and awakening, vow to follow the path of his peace, enlightenment, and liberation, and vow to look after and nourish sisterhood, brotherhood, teachers, and students. “The harmonious Sangha” consist of monastic and lay people vowing to learn, understand, practice, and apply the Buddhadharma into their daily lives to bring the benefits to many people.    

The Sangha that are the beautiful Community,

Travel together on the joyful path,

Cultivate and be freed from defilements

To make life be joyful and peaceful.”[18]

Hàng thứ tư của câu kệ Pháp Cú này là “Hạnh phúc thay Tứ chúng đồng tu.”Tứ chúng gồm có chúng xuất sĩ nam, chúng xuất sĩ nữ, chúng cư sĩ nam và chúng cư sĩ nữ. Cả Bốn Chúng này đều là đệ tử của Đức Thế Tôn, cùng nhau tu học Phật pháp để làm đẹp cho cuộc đời.

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo,

Biết Tam Bảo của tự tâm,

Nguyện tu học tinh cần,

Làm sáng lòng ba viên ngọc quý.”[19]

The fourth line of this Dhammapada verse is that “Happy is the fourfold Community in peace and concord together.” The fourfold Community consist of Buddhist Monks, Nuns, lay men, and lay women. All of them are the World-Honoured One’s monastic and lay disciples practicing the Buddhadharma together to beautify life.

Disciple taking refuge in the Three Jewels,

Knows the Three Jewels of one’s own mind,

Vows to practice the Buddha’s teachings diligently

To make the mind be illuminated by the Three Jewels.”[20]

 

Như vậy, chúng ta thấy “Xuân hạnh phúc” cũng có nghĩa là “Xuân Truyền Đăng.” “Truyền đăng” có nghĩa là chúng ta cùng nhau truyền trao ánh sáng của tình thương, hạnh phúc, và ánh sáng của an lạc tới muôn loài. Chúng ta cùng nhau thắp sáng lên ngọn đuốc của chánh Pháp, thắp sáng lên ngọn đuốc của tình thương và hòa bình. Tất cả chúng ta là những người mang ánh sáng chánh pháp cho số đông ngay trong cuộc sống hiện. Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì chúng ta có thể góp phần đem lại an vui và hạnh phúc cho nhiều người. Để tỏ lòng quý kính Tam Bảo, xin mời quý vị thưởng thức đọc bài thơ Xuân Hạnh Phúc dưới đây cho vui.

Thus, we see the “the Happy Spring” also means the “Spring of the Lamp Transmission.” “The Lamp Transmission” means we together transmit the light of love, happiness, and that of peaceful joy to all living things and living beings. We together light up the lamp of the Dhamma, light up the lamp of compassion and peace. All of us are bearers of the Dharma lights for the many right in the present life. When understanding and practicing so, we can contribute to bringing peace, joy, and happiness to many people. To express our hearts to esteem and respect the Three Jewels, please enjoy reading the poem of the Happy Spring below happily.

“Xuân Hạnh Phúc thanh thanh trong xanh,

Gió đưa làn mây trôi nhanh nhanh,

Từng đàn chim đua nhau quây quanh,

Mừng Xuân sang đón vui lễ hội.

Quỳ thành tâm nơi đây trang nghiêm,

Lòng cung kính hướng về Tam Bảo

Nguyện cầu cho Tăng thân thanh cao,

Sống hợp hòa, xiển dương đạo pháp.

“The Happy Spring is gentle clear green,

The wind brings the drifting clouds quickly

Each flock of birds gathers together                                      

Celebrating the coming Spring welcomes people to the festival.

Kneeling sincerely down in this solemn place,

One’s respectful heart is forwarded to the Three Jewels,

Praying for the noble Sangha Body,

Living in harmony to spread the Dhamma Path.

Cầu mong cho muôn nơi an vui,

Thoát mê lầm, tầm cầu giải thoát.

Và nguyện cho gia quyến hôm nay,

Sức khỏe đầy, vui vầy Chánh Pháp.

Cùng nguyện ước cửu huyền thất tổ,

Thấm nhuần Đạo, xa lìa nẻo ác.

Wishing for all places of peace and joy,

Escaping from ignorance to find out liberation,

And praying for families and relatives today,

The full health, the happy reunion of the Dhamma,

Together aspiring to ancestors and parents,

Penetrating the Dharma to keep away from the evil path. 

Mùa Xuân sang, vang ca vang ca,

Niềm hân hoan trong bao thiết tha,

Đời tươi vui như tâm nở hoa,

Niềm hạnh phúc dâng trào có Bụt,

Người trao ta duyên cùng Chánh Pháp,

Tình bao la trong muôn tiếng ca.

 

The Spring coming resounds, resounds,

With joy of eagerness in how dear,

Life is fresh and joyous as one’s heart blossoms,

Feelings of bliss are full of the Buddha,

Who leads us to the Dhamma,

Boundless love of all sounds of singing.

Dù mai đây, khi năm tháng qua,

Con vẫn bước trên đường của Bụt.

Tình thương Bụt mãi là bất diệt,

Bụt trong ta là nguồn nắng ấm.

Mừng Xuân sang, chúng ta hát ca,

Đón năm mới, vui chung mọi nhà.”[21]

 

Despite tomorrow, when years and months pass,

One still steps on the path of the Buddha,

Whose love is eternally forever,

The Buddha in one’s heart is the source of warm sunshine.

Celebration of the Spring coming, we sing the Dharma songs,

Welcoming the New Year, we are happy together with all families.”[22]

Trước thềm năm mới, thành tâm hướng về Cha, Mẹ, Thầy, Tổ, Đức Phật, Giáo Pháp vi diệu, và Tăng Đoàn an lạc, chúng con kính chúc toàn thể chư vị xuất Sĩ, cư Sĩ, quý đồng hương Phật tử vui khỏe trong Pháp học, Pháp hiểu, Pháp hành, Pháp Hỷ, Pháp hộ, và Pháp hoằng.

Mừng Xuân hạnh phúc hiện tiền,

Người người no ấm nhà nhà an vui.”[23]

 

Nam Mô Đức Phật Di Lặc, Hoan Hỷ, An vui, và Hạnh Phúc.

On the threshold of the New Year, turning our sincere minds to our Parents, Tearchers, Patriarchs, the Buddha, his Wonderful Dharma, and harmonious Sangha, we would like to wish Monastics, lay Buddhists, and everyone happiness and health in the Dharma learning, Dharma understanding, Dharma practice, Dharma joy, Dharma protection, and Dharma propagation.

Celebration of the Happy Spring in the present,

People are full, warm, and families are happy.[24]

Namo the Maitreya Buddha with joy, peace, and happiness.

By Thích Trừng Sỹ



[1] Kệ Pháp Cú số 194.

[2] Dhammapada, Verse No. 194.

[3] http://en.wikipedia.org/wiki/Sukha

[4] http://en.wikipedia.org/wiki/Sukha

[5]  HT. Thích Thiện Châu dịch. Xem http://www.thuvienhoasen.org/lienhoa501-04.htm

[6]  See Mahamangala Sutta, Sutta Nipatta II. 4 in Khuddaka Nikāya.

[7]  Bài thơ Hạnh Phúc của nữ xuất sĩ Thích Nữ Tắc Phú.

[8]  The Happy Poem of Nun Thích Nữ Tắc Phú.

[9]     Thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

[10]    Zen Master Thích Nhất Hạnh’s poem.

[11]   Xem S. V. 437-8; CDB. V. 1857-8. 

[12]   See The Path of Purification (Visuddhimagga). Bhikkhu Ñāṇamoli translated Pāli into English. Sri Lanka: 

      Buddhist Publication Society, 5th Edition 1991, Reprinted 1999, Chapter VII, 68-88: 209-215.

[13]   M. I. 185; MLD. I. 278.

[14]  See The Path of Purification (Visuddhimagga). Bhikkhu Ñāṇamoli translated Pāli into English. Sri Lanka: Buddhist Publication Society, 5th Edition 1991, Reprinted 1999, Chapter VII, 68-88: 209-215.

[15] Thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.

[16]   Zen Master Thích Nhất Hạnh’s Meditative poem.

[17]   Như trên.

[18]  Ibid.

[19]  Zen Master Thích Nhất Hạnh’s poem.

[20]   Zen Master Thích Nhất Hạnh’s poem.

[21]   Vu Lan 2007, thơ “Kính dâng Mẹ” của tác giả Nguyễn Nguyệt. Trong bài thơ này, người viết có đổi một vài từ cho phù hợp với ngữ cảnh Mùa Xuân, kính mong tác giả hoan hỷthông cảm. Mến chúc tác giả vui Xuân.

[22] Ullambana 2007, the Poem of “Respectfully Offering Mother,” of the author Nguyễn Nguyệt. In this poem, the writer has changed some words in conformity with the context of the Spring, and respectfully expects the author of this poem to understand and sympathize with him, who lovingly wishes the author to be happy with the Spring.

[23]   Người viết, tập làm thơ cho dzui cho dzui, hòa với đời vui cùng chánh Pháp.

[24] The writer, practicing making a poem for joy, harmonizes with life to be happy together with the Dhamma.  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1231)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1427)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1501)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1546)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1378)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1323)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1136)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1246)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1236)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1320)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1339)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1408)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1277)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1384)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1284)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1248)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1315)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1246)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1421)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1679)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1369)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1670)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1273)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1189)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1404)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1264)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1321)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1471)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1711)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1724)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1529)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1728)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1406)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1375)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 1892)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1466)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1418)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1371)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1346)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1441)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1292)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1548)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1537)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1406)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1410)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1301)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1700)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1456)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant