Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vân Lô Chiết Triều

03 Tháng Hai 201915:18(Xem: 8995)
Vân Lô Chiết Triều
Vân Lô Chiết Triều
 
Lê Huy Trứ 
Hòa thượng Thích Thanh Từ tâm sự: Có nhiều người đến hỏi chúng tôi, Quí thầy ở đây lâu năm tu hành như thế nào? Tôi đáp: Chỉ có bài kinh Bát-nhã mà đọc hoài không thuộc, cứ quên tới, quên lui! Ở đây Phật nói ngắn hơn, chỉ bốn câu kệ thôi mà vẫn không thuộc. Nghĩa là ở đây coi như thuộc, bước ra khỏi chùa là hết thuộc, vì vừa ra khỏi là tính mai làm gì, mốt làm gì v.v… tính một hồi là quên mất câu kinh… Thế nên tất cả chúng ta đều quên, quên mãi, mà quên đó là mê. Vì thế đức Phật chỉ thật là kỹ: Dù cho chúng ta đem bao nhiêu của báu bố thí cũng không bằng trì bốn câu kinh Kim Cang. Ứng dụng thọ trì bốn câu kinh Kim Cang là phước hơn làm ra bao nhiêu của báu để bố thí. Thật ra nếu chúng ta nhận được lý đó để sống, tự nhiên chúng ta chuyển cả cuộc đời mình, chuyển từ cái thân giả dối trở lại cái chân thật. Còn bố thí của cải dù nhiều bao nhiêu đi nữa, sau này sanh ra mình hưởng, nhưng cũng vẫn ở trong sanh diệt. Thế nên khéo trì kinh Kim Cang là đã chuyển mê thành ngộ, bỏ thân luân hồi sanh diệt trở về cái vô sanh, như thế phước đức không gì sánh bằng. (Kinh Kim Cang Giảng Giải)
 Đức Phật dạy: Chẳng thủ nơi tướng, như như bất động, thì thọ trì cũng chẳng thủ nơi tướng, như như bất động, đọc tụng cũng chẳng thủ nơi tướng, như như bất động, vì người diễn nói cũng chẳng thủ nơi tướng, như như bất động, đó là công đức hơn người bố thí bảy báu trải qua số kiếp vô lượng vô biên. (Hòa thượng Thích Thanh Từ suy diễn)
Chẳng chấp sắc tướng mà sanh tâm!
Muốn hiểu ý này thì phải suy bụng phật ra bụng ta, nhưng bụng ta không phải như bụng phật, cho nên bụng phật là bụng ta.
Kinh này không phải để trì mà nhớ nhưng mà để tụng mà quên.  Càng đọc càng quên, càng hiểu khác nhau tùy theo duyên khởi, và tâm trạng lúc đó mà như có hay như không.
Cho nên càng tụng càng không nhớ, càng không nhớ càng tụng cho đến khi không tụng mà không nhớ là không tụng cái gì thì đã thành công ... Không.
Tóm lại,
“Kiến thức là những gì còn lại sau khi quên,” trí tuệ là những gì không còn lại sau khi không nhớ.
Nói theo tục đế là khi sống trong như thật thì phải tưởng là như mộng.  Khi đang sống trong như mộng thì nghĩ là như thật.
Có nghĩa là khi đọc tâm kinh mà hay quên vì tuy não tỉnh nhưng tâm không tĩnh cho nên chỉ nhớ cái quên thay vì quên cái nhớ.  Ngược lại, khi chìm trong giấc ngủ thật say không niệm kinhý nghĩa kinh trở thành chân khí cuồn cuộn liên miên bất tận trong thân tâm thì đó mới thật sự là trì được kinh, ngộ được ngôn ngữ của tim, lòng, gan, ruột, phèo, phổi qua hơi thở mà không biết mình đang thở.
Một phần ba của cuộc đời của chúng ta là ngủ, và nghỉ.  Hai phần ba là tỉnh, và động.  Điều này không có nghĩa là phần nào có thật hay phần nào không có thật vì không có những chuyện “ăn ngủ lẹo ị” này thì liệu chúng ta hiện sinh được bao lâu?
Chúng ta tưởng là mơ vì chúng ta không kiểm soát, quản trị được mộng vô thường trong cơn mơ.   Vậy thì lúc tỉnh liệu chúng ta có thể nắm giữ những hành động lúc tỉnh đó, như thật nhưng thật sự vô thường, đó được bao lâu?
Đâu mới thật sự là bờ mê bến tỉnh?
Muốn giác tâm bát nhã thì phải đáo bỉ ngạn tới bờ bên kia mới hiểu nỗi bờ bên đó.
Mà khi tới bờ bên nớ rồi thì cũng như bờ bên ni.
鑪山
鑪山煙鎖浙江潮,
未到平生恨不消。
到得本來無別事,
鑪山煙鎖浙江潮。
Lô sơn
 Lô sơn yên toả Chiết giang triều,
Vị đáo bình sinh hận bất tiêu.
Đáo đắc bản lai vô biệt sự,
Lô sơn yên toả Chiết giang triều.

Bản dịch phổ thông nhưng không biết tác giả:
Khói ngút non Lô sóng Chiết giang
Khi chưa đến đó luôn mơ màng
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non Lô sóng Chiết giang.
Nhà sư/thi hào Tuệ Sỹ cho bài dịch dưới này là chuẩn ý nhất.
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Khi chưa đến đó hận muôn vàn.
Đến rồi về lại không gì lạ.
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Bài thơ này theo một số tài liệu Phật giáo Việt Nam cho rằng của Tô Đông Pha, tuy nhiên hiện vẫn chưa tìm thấy trong các tư liệu của Trung Quốc cũng như trong các tập thơ của Tô Đông Pha.
Trong Vài suy nghĩ về một bài thơ của Tô Đông Pha, Phạm Hữu Phước kết luận:  Lô Sơn, chân diện mục, ai ai cũng có. Nhưng nói một cách chắc nịch: “Đến rồi về lại không gì lạ” như Tô Đông Pha thì không phải ai cũng làm được. Con đường đi tìm lại “ta là gì” là cả một tiến trình đòi hỏi nhiều công phu của hành giả.
Hay là nó quả như thế ni?
Vân tỏa triều phao hữu như thị.
Yên Lô triều Chiết hiện
 như thức,
Lưu thủy tán vân
 huyễn như mộng.
Sơn Lô giang Chiết ảo
 như thị,
(Lê Huy Trứ)
Tuy văn-tri-giác bảo rằng bọt sóng, bóng ảnh huyễn mộng như thế nhưng nếu có thân hình (sắc vật) thì có bóng (ảo ảnh).  Như hình với bóng” dưới ánh sáng. Thấy vậy nhưng thật ra tất cả chúng sinh hiện hữu đó với những chướng ngại duyên sinh điều vô thường, như thị hồ.
Như như huyễn mộng chứ không phải hoàn toàn bóng ảnh.
Cho nên chúng ta không thể suy bụng ta ra bụng Phật được.
Muốn thành Phật thì phải “văn tri giác” như Phật.
Suy bụng Phật ra bụng ta.
Cho nên, nếu hỏi phật ở bờ kia, làm sao có qua bờ bên kia thì phật sẽ bảo ngươi đang ở bờ bên kia.  Phật không có cái tánh thấy phân biệt, chúng sinh và Phật vốn cùng phật tánh.  Phật tính trong sạch, tỏa sáng như viên ngọc Ma Ni, tự viên diệu, chưa hề sinh ra, và cũng chưa hề bị diệt.
Nhưng nếu phật ở bờ bên kia hỏi ta, sao ngươi không đáo bỉ ngạn qua bờ bên này thì ta sẽ trả lời là ta đang ở bờ bên này vì ta với phật tuy đồng phật tánh bất nhị nhưng căn trí không bất nhị.
Cho nên bờ bên ni không phải như bờ bên ni mà là bờ bên ni.
Bờ bên nớ không phải là bờ bên tê mà nó là bờ bên nớ.
Nhiều tay tổ đã giải mã ý bài thơ Lô Sơn này rồi.  Tôi chỉ đặt lại vị trí của ý thơ qua lăng kính hiện tại cho giới trẻ, hậu sinh bất khả úy.
Bị hãm bởi mây sơn Lô như đắm trong sóng sông Chiết.  Khi chưa giải thoát mong bỉ ngạn.  Tới bờ rồi thì cũng như lên đỉnh núi.  Chìm trong đáy sông Chiết giang không khác gì bị vây khổn bởi khói núi Lô.
 Khi chưa giải thoát thì u mê không lối ra.  Chưa đạt được thì mong đắc.  Giải thoát, đạt được giác ngộ rồi chẳng khác như không.  Vẫn trôi nỗi trong hư không, không biên giới.
Tôi hiểu như vầy:
Hãm mây Lô như chìm sóng Chiết,
Bình sinh không đắc như lai hận.
Bản lai giác ngộ cũng như không,
Quá vân Lô như lướt Chiết triều.
(Lê Huy Trứ)
Tuy nhiên, cái gì bị, Lô sơn yên tỏa Chiết giang triều?  
Chướng ngại vì bị mây che khuất trí cao, sóng phiền muộn ở đâu nhận chìm tuệ tâm?
Cái bát nhã là cái chi chi mà Phật tử thường bàn tụng, giảng giải nghe rất cao siêu nhưng không mấy ai tu luyện thành công?
Lúc mới tu đạo, nghiệp đổ dồn như bị mây mù che lối, thủy triều lôi cuốn tức là còn chìm đắm, vây hãm trong vô minh nên vẫn còn khổ đau. 
Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng giải:
"Ký ngữ lai hiền cầu chư kỷ, nhắc kỷ hiền sĩ cầu tri kỷ."
Tôi có một lời muốn nhắc nhở những vị hiền nhân, những vị tu hành trong tương lai là nếu chư vị muốn tâm không quái ngại, đạt đến nơi không chứng đắc, thì phải tự cầu tri kỷ, không nên hướng ngoại tìm cầu, hướng ngoại truy cầu. Đạo lý không tu không chứng, không chỗ chứng đắc tức là lý tìm cầu chư kỷ, nghĩa là phải hồi quang phản chiếu, xoay lại tìm cầu chính mình.
Đầu thượng an đầu tối ngu si, đầu đạt trên đầu thật ngu si.
Nếu chư vị hướng ngoại truy cầu đạo lý thì thật là ngu si, cũng giống như lấy đầu đặt lên đầu. Có ngu si lắm không ? Thật rất ngu si. Đừng lấy đầu mà để lên đầu, phải nên hồi quang phản chiếu, xoay thân chuyển đầu trở lại.  Nếu không chuyển được thân thì không thể đạt đến đâu cả.
quái ngại cố. Vô hữu khủng bố. Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn, tâm không quái ngại, không có khủng bố, xa rời điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh niết bàn.
Bát nhã ba la mật đa là một trong những pháp môn tu hành của Phật Giáo với cùng một mục đích để an lặng vọng tâm.  Khi vọng tưởng không còn khởi lên thì tự nhiên, chân tâm sáng suốt thanh tịnh hiển bày, hiển thị.
Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm!
Khi mọi cơn sóng lớn trên Chiết giang (ví như vọng tâm, tâm phang duyên) lặng hết thì cái bản lai của sông Chiết bao la thanh tịnh hiện ra trước mắt trí tuệ (gọi là chân tâm hiển lộ, nhi sinh kỳ tâm).  Khi mọi mây mù tan hết trên đỉnh cao thì Lô sơn hiện ra với đầy đủ diện mục của “suối nước khe xanh, thanh tịnh tâm.”
(Trích trong bài trường pháp luận, Như Như Bất Động, tác giả Lê Huy Trứ sẽ xuất bản trong một ngày rất gần đây)
Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Hai 201907:28
Khách
A di da phat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3110)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2198)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2271)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2426)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2375)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2423)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2089)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2462)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2937)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2549)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2593)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2870)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2452)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2485)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3908)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2697)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2906)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3175)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2194)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2413)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2713)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2901)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2747)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2523)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2532)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3099)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2514)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2198)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2300)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2400)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2495)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2591)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2620)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3158)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2455)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2062)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2512)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 1975)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2718)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2815)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2836)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2609)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2712)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2271)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3170)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2452)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2400)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2307)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 3051)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant