Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhắc Nhở Đầu Năm

19 Tháng Hai 201904:49(Xem: 5885)
Nhắc Nhở Đầu Năm

NHẮC NHỞ ĐẦU NĂM


 HT. Thích Thanh Từ

Năm Mới Hành Trình Đổi Mới


Đầu năm mới, người thế gian mừng tuổi nhau với mong ước gặp điều tốt đẹp may mắn, làm ăn phát tài thăng tiến. Người xuất gia chỉ mong có thời gian để rèn luyện thân tâm, trau dồi đức hạnh và làm tất cả Phật sự cần thiết. Một ngày sống là một ngày làm lợi ích cho nhiều người.


Vì thế ý nghĩa mừng tuổi đối với người xuất gia vô cùng quý báu. Nếu sự tu hành khá hơn, con đường đạo tiến xa hơn, Phật sự được hoàn tất khả dĩ xứng đáng để mừng thọ. Bởi vì thêm một tuổi không phải để thụ hưởng mà để phụng sự cho đạo phápcố gắng tu tập cho bản thân. Đó mới là ý nghĩa thiết thực của việc mừng tuổi

Nếu người tu không nắm vững chủ trương, chẳng những không được kết quả lại uổng đi một đời tu hành. Ai cũng biết tâm bệnh trầm kha của chúng sanhmê muội, danh từ chuyên môn trong nhà Phật gọi là vô minh. Vì vô minh nên thấy cái giả cho là thật, thấy cái tạm bợ cho là bền vững. Từ sai lầm đó khiến tâm dính mắc với thân và cảnh vật bên ngoài, vọng tưởng hết chuyện này tới chuyện kia, không bao giờ an ổn.

Muốn bước vào cửa thiền phải nắm vững lý Bát-nhã. Bát-nhã là thanh kiếm trí tuệ có thể chặt đứt tất cả vướng mắc bằng hai cách:

Một, quán xét tường tận thân này chỉ là tướng duyên hợp hư giả không thật. Xét cho thấu đáo chúng ta sẽ thấy mọi phiền não, lo âu gốc đều từ chấp thân thật rồi lo lắng bảo vệ giữ gìn nó. Trong kinh Bát-nhã nói: “Sắc tức thị không” nghĩa là thân do tứ đại hợp thành hình tướng gọi là sắc, duyên hợp không có tự thể. Vì không có tự thể nên tánh nó là Không. Thấy rõ ràng như vậy thì không còn chấp sắc thân nữa.

Hai, đối với phần tâm gồm thọ, tưởng, hành, thức phải biết nó chỉ là tạm bợ, hư ảo. Ví dụ chúng ta đang vui bỗng có ai nói một câu xúc phạm liền nổi giận. Lắm người khờ dại đến nỗi thốt lên rằng sẽ giận người làm tổn thương mình ngàn năm không quên hoặc không đội trời chung. Họ cho rằng tâm sân lúc đó sẽ còn mãi, nhưng không ngờ nếu có người đến an ủi, giải quyết mọi khó khăn, đáp ứng những nhu cầu thì mình hết giận ngay. Cho nên buồn vui, thương ghét là duyên hợp hư ảo, có rồi mất, không thật. Như vậy nếu chấp thân tứ đạitâm duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, tức là đang mắc phải bệnh vô minh. Chỉ cần thấy rõ thân không thật, tâm tạm bợ là sáng suốt, đầy đủ trí tuệ Bát-nhã.

Sở dĩ tâm chúng ta chưa sáng, đang sống trong si mê vì luôn bị vọng tưởng điên đảo kéo lôi. Nếu biết dùng trí Bát-nhã quán chiếu sẽ không còn chấp thân tâm và cảnh. Vừa dấy niệm biết chúng là hư giả thì tự nó tan, hơn thua được mất không có gì đáng để lòng. Được như vậy là chúng ta đã bước vào cửa thiền bằng trí tuệ Bát-nhã. Đi trong sự sáng suốt giác ngộ, không còn vô minh tối tăm. Từ đó việc tọa thiền mới an ổn, không gì có thể kéo lôi hay làm ta xao động. Do đó bước đầu tiên chúng ta phải ứng dụng được trí tuệ Bát-nhã.

Thiền sư Duy Tín khi ngộ được tâm yếu nói rằng: “Trước ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Đến nay, qua ba mươi năm tôi lại thấy núi sông là núi sông”. Ngày trước vì chưa hiểu nên tôi thấy hơi ngạc nhiên, chư Tổ thường truyền bá thiền bằng cách chỉ thẳng tâm, trong trường hợp này ngài ngộ tâm tánh gì mà nói như vậy? Sau này tôi mới rõ ngài đã thấu triệt lý Bát-nhã, thấy hết thảy người, vật đều là duyên hợp hư giả. Thấu triệt chỗ đó rồi thì không gì có thể quấy động ta được. Càng thâm nhập lý Bát-nhã, tâm càng yên lắng, thanh tịnh. Thể chân thật hiện bày rõ ràng, gần gũi không xa lạ. Nhờ trí tuệ Bát-nhã phá sạch lầm chấp hư dối cho là thật nên tâm như như không còn biến động, vì thế ngài thấy núi sông là núi sông.

Ở đây, không đợi chư Tổ chỉ thẳng tâm tánh cho mình, tự mình phải phá dẹp hết hư giả do mê lầm tạo nên thì cái chân thật sẽ tự hiện. Chúng ta phải nghiền ngẫm và hiểu thấu đáo lý chân thật đó. Mỗi đêm nên tụng ít nhất một hoặc ba biến Bát-nhã để nhớ quán chiếu, chứ không nên tụng suông hoặc tụng để tăng phước. Đó là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai, hành giả dụng công trong lúc ngồi yên, không tiếp duyên đối cảnh mà chỉ nhìn lại nội tâm. Trong trường hợp này ứng dụng trí tuệ Bát-nhã bằng cách, khi vọng tưởng vừa dấy khởi biết là hư dối liền buông không chạy theo. Đến lúc thực hành thuần thục, niệm vừa dấy chỉ cần nhìn lại thì nó mất. Tâm tự lặng, không cần đợi buông. Nhiều vị than thở ngồi thiền buông niệm này, niệm khác khởi lên thì có ích gì. Trong một giờ có khi chúng ta mất cả trăm lần vừa bỏ niệm này, niệm khác khởi rồi lại bỏ tiếp. Bởi quá nhiều lần nên quý vị tưởng mình tu không tiến nhưng thực sự đã có tiến rồi.

Khi mê tâm dấy nghĩ ta liền chạy theo, thí dụ vừa nghĩ về một người thân ở xa, tưởng tượng người đó bây giờ làm gì, vui hay buồn. Tuy nghĩ mất mười phút hoặc hai mươi phút, nhưng khi tỉnh vừa dấy nghĩ liền buông thì không mất thời giờ lại có lợi ích. Ngày trước vì huân tập trong tâm nên mới nhớ, bây giờ không huân thì không nhớ. Nhưng đáng thương cho chúng ta thường nhớ cái không đáng nhớ, quên cái không nên quên.

Giả sử mình với người có lời qua tiếng lại, tuy được thầy trụ trì hay thầy tri sự can ngăn, nhưng chúng ta không chịu để sự việc lắng xuống. Mai mốt tìm gặp huynh đệ kể đi kể lại chuyện đã qua. Vì nhắc tới nhắc lui nên nó càng in sâu trong tâm thức. Khắc càng kỹ càng khó bỏ. Nếu thực sự quyết tâm cũng có lúc bỏ được, nếu không như vậy sẽ không bao giờ hết. Chúng ta ngồi thiền để buông sạch tất cả vọng tưởng. Chừng nào ngồi được một hai giờ tỉnh táo, tâm lặng lẽ không còn một ý niệm, lúc đó đâu cần hỏi cái gì là ta.

Người khờ dại khi nghe nói đến tâm liền đinh ninh suy nghĩ tốt xấu, phải quấy là tâm rồi lao theo nó. Họ không biết rằng lúc không suy nghĩ, tâm yên lặng mà vẫn sáng suốt, thấy biết một cách rõ ràng mới là tâm thật của mình. Do chúng ta mải chạy theo sự sanh diệt của buồn thương, giận ghét nên luân hồi lưu chuyển không ngừng, tuy nhiên cái biết vẫn không bị tổn giảm. Ai cũng có sẵn kho trí tuệ gọi là Phật tánh mà lâu nay bị vô minh che lấp. Biết thân tâm sanh diệt không thật là hết sai lầm, không chấp trước, buông xả tất cả thì trí tuệ chân thật hiện tiền. Đó là kết quả tu hành trong lúc tọa thiền.

Điểm thứ ba, tu trong khi tiếp duyên xúc cảnh. Khi tiếp duyên xúc cảnh phải dọn sạch sáu căn không cho dính với sáu trần. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi... đều không dính mắc, tức là gỡ hết tất cả trần. Pháp trần không dính mắc, tâm liễu liễu thường tri, hiện tiền không vắng thiếu. Đó là chỗ chúng ta phải nhận chân được. Tổ Huệ Khả khi nhận được tâm yếu nơi Tổ Bồ-đề Đạt-ma, biết lối vào từ đó miên mật hành trì. Thời gian sau, ngài trình với Tổ Đạt-ma rằng: “Con bặt hết các duyên”, tức là dứt hết các duyên, không còn bất cứ ràng buộc nào. Tổ bảo: “Coi chừng rơi vào không”. Ngài thưa: “Rõ ràng thường biết, làm sao không được”. Ngay đó Tổ hứa khả: “Ông được như thế, ta được như thế, chư Phật cũng như thế”.

Như vậy, khi tâm chúng ta không còn dính với sáu trần mà vẫn thường biết rõ ràng là chỗ chư Phật, chư Tổ đã được và chúng ta cũng có thể được. Đây là điểm cứu kính trên đường tu. Chúng ta phải nắm chắc căn bản sự tu trong khi ngồi thiền cũng như lúc đối duyên xúc cảnh. Muốn công phu tăng tiến, trước phải lấy trí Bát-nhã quán chiếu thấy thân tâm và cảnh đều huyễn hóa. Nếu không biết bản chất của chúng vốn hư dối thì đối với sáu trần nhất định sẽ bị dính mắc.

Thiền sư Đạo Tín lúc còn làm Sa-di mười bốn tuổi gặp Tổ Tăng Xán cầu xin pháp môn giải thoát: “Bạch Hòa thượng, xin từ bi ban cho con pháp môn giải thoát”. Tổ nhìn thẳng vào ngài bảo: “Ai trói buộc ngươi?”. Câu hỏi của Tổ làm ngài Đạo Tín sửng sốt, tìm kỹ lại một lúc rồi thưa với Tổ: “Không ai trói buộc”. Tổ bảo: “Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát”. Ngài Đạo Tín ngay đó liền đại ngộ. Thật đơn giản! Không ai trói buộc thì cầu giải thoát cái gì? Nghiệp là nhân tố dẫn chúng ta đi trong sanh tử luân hồi. Khi tìm lại tập nghiệp thấy nó không thật. Biết nghiệp không thật, buông tất cả suy nghĩ phân biệt, không chấp giữ tức là hết trói buộc, tự giải thoát.

Trong bài Sơn phòng mạn hứng, Sơ tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà viết:

Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,

Bất phàm hà tất mích thần tiên,

Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,

Y cựu vân trang nhất tháp thiền.

Dịch:

Ai trói lại mong cầu giải thoát,

Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên,

Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão,

Như cũ vân trang một chõng thiền.

Chúng sanh vốn sẵn có tánh Phật, do nghiệp tập hư ảo che khuất khiến tâm luôn luôn bất an, tự mình trói buộc mình vào đau khổ. Chỉ cần không dính mắc, không mong cầu gì khác, xoay trở về tâm chân thật thì tự tại. Tất cả mọi loài trên thế gian đều trải qua quy luật sanh già bệnh chết do vô thường chi phối. Như hình ảnh vượn, ngựa, người hiện tướng nhọc nhằn, mệt mỏi để cuối cùng đưa đến già nua, suy kiệt. Duy chỉ còn nguyên một chõng thiền trong ngôi nhà nhỏ trên núi. Mặc cho cuộc đời biến chuyển, con người đổi thay từ trẻ đến già nhưng ở đó tâm người ngồi trên giường thiền vẫn không có gì thay đổi. Điều này nói lên dù thế gian có muôn ngàn biến chuyển, nhưng người đạt được tâm chân thật thì trước sau như một, không bao giờ đổi dời. Được như vậy là giải thoát sanh tử, không còn bị luân hồi chi phối.

Hôm nay nhân đầu năm, tôi kính chúc tất cả Tăng Ni hãy cố gắng tu và sống đúng với những gì Phật Tổ đã chỉ dạy.
HT. Thích Thanh Từ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1655)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1649)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1823)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1817)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1510)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1673)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2010)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1759)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2318)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1652)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1663)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1617)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2070)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1890)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2027)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1579)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2185)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1549)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1806)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1695)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1760)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1588)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2342)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2057)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2009)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1820)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2155)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1724)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1852)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2078)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1607)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1876)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1867)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2092)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1858)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1703)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1686)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1691)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1804)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2098)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1659)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1636)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2188)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1896)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1705)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2278)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1896)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1987)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2180)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2463)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant