Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhắc Nhở Đầu Năm

19 Tháng Hai 201904:49(Xem: 5947)
Nhắc Nhở Đầu Năm

NHẮC NHỞ ĐẦU NĂM


 HT. Thích Thanh Từ

Năm Mới Hành Trình Đổi Mới


Đầu năm mới, người thế gian mừng tuổi nhau với mong ước gặp điều tốt đẹp may mắn, làm ăn phát tài thăng tiến. Người xuất gia chỉ mong có thời gian để rèn luyện thân tâm, trau dồi đức hạnh và làm tất cả Phật sự cần thiết. Một ngày sống là một ngày làm lợi ích cho nhiều người.


Vì thế ý nghĩa mừng tuổi đối với người xuất gia vô cùng quý báu. Nếu sự tu hành khá hơn, con đường đạo tiến xa hơn, Phật sự được hoàn tất khả dĩ xứng đáng để mừng thọ. Bởi vì thêm một tuổi không phải để thụ hưởng mà để phụng sự cho đạo phápcố gắng tu tập cho bản thân. Đó mới là ý nghĩa thiết thực của việc mừng tuổi

Nếu người tu không nắm vững chủ trương, chẳng những không được kết quả lại uổng đi một đời tu hành. Ai cũng biết tâm bệnh trầm kha của chúng sanhmê muội, danh từ chuyên môn trong nhà Phật gọi là vô minh. Vì vô minh nên thấy cái giả cho là thật, thấy cái tạm bợ cho là bền vững. Từ sai lầm đó khiến tâm dính mắc với thân và cảnh vật bên ngoài, vọng tưởng hết chuyện này tới chuyện kia, không bao giờ an ổn.

Muốn bước vào cửa thiền phải nắm vững lý Bát-nhã. Bát-nhã là thanh kiếm trí tuệ có thể chặt đứt tất cả vướng mắc bằng hai cách:

Một, quán xét tường tận thân này chỉ là tướng duyên hợp hư giả không thật. Xét cho thấu đáo chúng ta sẽ thấy mọi phiền não, lo âu gốc đều từ chấp thân thật rồi lo lắng bảo vệ giữ gìn nó. Trong kinh Bát-nhã nói: “Sắc tức thị không” nghĩa là thân do tứ đại hợp thành hình tướng gọi là sắc, duyên hợp không có tự thể. Vì không có tự thể nên tánh nó là Không. Thấy rõ ràng như vậy thì không còn chấp sắc thân nữa.

Hai, đối với phần tâm gồm thọ, tưởng, hành, thức phải biết nó chỉ là tạm bợ, hư ảo. Ví dụ chúng ta đang vui bỗng có ai nói một câu xúc phạm liền nổi giận. Lắm người khờ dại đến nỗi thốt lên rằng sẽ giận người làm tổn thương mình ngàn năm không quên hoặc không đội trời chung. Họ cho rằng tâm sân lúc đó sẽ còn mãi, nhưng không ngờ nếu có người đến an ủi, giải quyết mọi khó khăn, đáp ứng những nhu cầu thì mình hết giận ngay. Cho nên buồn vui, thương ghét là duyên hợp hư ảo, có rồi mất, không thật. Như vậy nếu chấp thân tứ đạitâm duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, tức là đang mắc phải bệnh vô minh. Chỉ cần thấy rõ thân không thật, tâm tạm bợ là sáng suốt, đầy đủ trí tuệ Bát-nhã.

Sở dĩ tâm chúng ta chưa sáng, đang sống trong si mê vì luôn bị vọng tưởng điên đảo kéo lôi. Nếu biết dùng trí Bát-nhã quán chiếu sẽ không còn chấp thân tâm và cảnh. Vừa dấy niệm biết chúng là hư giả thì tự nó tan, hơn thua được mất không có gì đáng để lòng. Được như vậy là chúng ta đã bước vào cửa thiền bằng trí tuệ Bát-nhã. Đi trong sự sáng suốt giác ngộ, không còn vô minh tối tăm. Từ đó việc tọa thiền mới an ổn, không gì có thể kéo lôi hay làm ta xao động. Do đó bước đầu tiên chúng ta phải ứng dụng được trí tuệ Bát-nhã.

Thiền sư Duy Tín khi ngộ được tâm yếu nói rằng: “Trước ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Đến nay, qua ba mươi năm tôi lại thấy núi sông là núi sông”. Ngày trước vì chưa hiểu nên tôi thấy hơi ngạc nhiên, chư Tổ thường truyền bá thiền bằng cách chỉ thẳng tâm, trong trường hợp này ngài ngộ tâm tánh gì mà nói như vậy? Sau này tôi mới rõ ngài đã thấu triệt lý Bát-nhã, thấy hết thảy người, vật đều là duyên hợp hư giả. Thấu triệt chỗ đó rồi thì không gì có thể quấy động ta được. Càng thâm nhập lý Bát-nhã, tâm càng yên lắng, thanh tịnh. Thể chân thật hiện bày rõ ràng, gần gũi không xa lạ. Nhờ trí tuệ Bát-nhã phá sạch lầm chấp hư dối cho là thật nên tâm như như không còn biến động, vì thế ngài thấy núi sông là núi sông.

Ở đây, không đợi chư Tổ chỉ thẳng tâm tánh cho mình, tự mình phải phá dẹp hết hư giả do mê lầm tạo nên thì cái chân thật sẽ tự hiện. Chúng ta phải nghiền ngẫm và hiểu thấu đáo lý chân thật đó. Mỗi đêm nên tụng ít nhất một hoặc ba biến Bát-nhã để nhớ quán chiếu, chứ không nên tụng suông hoặc tụng để tăng phước. Đó là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai, hành giả dụng công trong lúc ngồi yên, không tiếp duyên đối cảnh mà chỉ nhìn lại nội tâm. Trong trường hợp này ứng dụng trí tuệ Bát-nhã bằng cách, khi vọng tưởng vừa dấy khởi biết là hư dối liền buông không chạy theo. Đến lúc thực hành thuần thục, niệm vừa dấy chỉ cần nhìn lại thì nó mất. Tâm tự lặng, không cần đợi buông. Nhiều vị than thở ngồi thiền buông niệm này, niệm khác khởi lên thì có ích gì. Trong một giờ có khi chúng ta mất cả trăm lần vừa bỏ niệm này, niệm khác khởi rồi lại bỏ tiếp. Bởi quá nhiều lần nên quý vị tưởng mình tu không tiến nhưng thực sự đã có tiến rồi.

Khi mê tâm dấy nghĩ ta liền chạy theo, thí dụ vừa nghĩ về một người thân ở xa, tưởng tượng người đó bây giờ làm gì, vui hay buồn. Tuy nghĩ mất mười phút hoặc hai mươi phút, nhưng khi tỉnh vừa dấy nghĩ liền buông thì không mất thời giờ lại có lợi ích. Ngày trước vì huân tập trong tâm nên mới nhớ, bây giờ không huân thì không nhớ. Nhưng đáng thương cho chúng ta thường nhớ cái không đáng nhớ, quên cái không nên quên.

Giả sử mình với người có lời qua tiếng lại, tuy được thầy trụ trì hay thầy tri sự can ngăn, nhưng chúng ta không chịu để sự việc lắng xuống. Mai mốt tìm gặp huynh đệ kể đi kể lại chuyện đã qua. Vì nhắc tới nhắc lui nên nó càng in sâu trong tâm thức. Khắc càng kỹ càng khó bỏ. Nếu thực sự quyết tâm cũng có lúc bỏ được, nếu không như vậy sẽ không bao giờ hết. Chúng ta ngồi thiền để buông sạch tất cả vọng tưởng. Chừng nào ngồi được một hai giờ tỉnh táo, tâm lặng lẽ không còn một ý niệm, lúc đó đâu cần hỏi cái gì là ta.

Người khờ dại khi nghe nói đến tâm liền đinh ninh suy nghĩ tốt xấu, phải quấy là tâm rồi lao theo nó. Họ không biết rằng lúc không suy nghĩ, tâm yên lặng mà vẫn sáng suốt, thấy biết một cách rõ ràng mới là tâm thật của mình. Do chúng ta mải chạy theo sự sanh diệt của buồn thương, giận ghét nên luân hồi lưu chuyển không ngừng, tuy nhiên cái biết vẫn không bị tổn giảm. Ai cũng có sẵn kho trí tuệ gọi là Phật tánh mà lâu nay bị vô minh che lấp. Biết thân tâm sanh diệt không thật là hết sai lầm, không chấp trước, buông xả tất cả thì trí tuệ chân thật hiện tiền. Đó là kết quả tu hành trong lúc tọa thiền.

Điểm thứ ba, tu trong khi tiếp duyên xúc cảnh. Khi tiếp duyên xúc cảnh phải dọn sạch sáu căn không cho dính với sáu trần. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi... đều không dính mắc, tức là gỡ hết tất cả trần. Pháp trần không dính mắc, tâm liễu liễu thường tri, hiện tiền không vắng thiếu. Đó là chỗ chúng ta phải nhận chân được. Tổ Huệ Khả khi nhận được tâm yếu nơi Tổ Bồ-đề Đạt-ma, biết lối vào từ đó miên mật hành trì. Thời gian sau, ngài trình với Tổ Đạt-ma rằng: “Con bặt hết các duyên”, tức là dứt hết các duyên, không còn bất cứ ràng buộc nào. Tổ bảo: “Coi chừng rơi vào không”. Ngài thưa: “Rõ ràng thường biết, làm sao không được”. Ngay đó Tổ hứa khả: “Ông được như thế, ta được như thế, chư Phật cũng như thế”.

Như vậy, khi tâm chúng ta không còn dính với sáu trần mà vẫn thường biết rõ ràng là chỗ chư Phật, chư Tổ đã được và chúng ta cũng có thể được. Đây là điểm cứu kính trên đường tu. Chúng ta phải nắm chắc căn bản sự tu trong khi ngồi thiền cũng như lúc đối duyên xúc cảnh. Muốn công phu tăng tiến, trước phải lấy trí Bát-nhã quán chiếu thấy thân tâm và cảnh đều huyễn hóa. Nếu không biết bản chất của chúng vốn hư dối thì đối với sáu trần nhất định sẽ bị dính mắc.

Thiền sư Đạo Tín lúc còn làm Sa-di mười bốn tuổi gặp Tổ Tăng Xán cầu xin pháp môn giải thoát: “Bạch Hòa thượng, xin từ bi ban cho con pháp môn giải thoát”. Tổ nhìn thẳng vào ngài bảo: “Ai trói buộc ngươi?”. Câu hỏi của Tổ làm ngài Đạo Tín sửng sốt, tìm kỹ lại một lúc rồi thưa với Tổ: “Không ai trói buộc”. Tổ bảo: “Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát”. Ngài Đạo Tín ngay đó liền đại ngộ. Thật đơn giản! Không ai trói buộc thì cầu giải thoát cái gì? Nghiệp là nhân tố dẫn chúng ta đi trong sanh tử luân hồi. Khi tìm lại tập nghiệp thấy nó không thật. Biết nghiệp không thật, buông tất cả suy nghĩ phân biệt, không chấp giữ tức là hết trói buộc, tự giải thoát.

Trong bài Sơn phòng mạn hứng, Sơ tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà viết:

Thùy phược cánh tương cầu giải thoát,

Bất phàm hà tất mích thần tiên,

Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,

Y cựu vân trang nhất tháp thiền.

Dịch:

Ai trói lại mong cầu giải thoát,

Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên,

Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão,

Như cũ vân trang một chõng thiền.

Chúng sanh vốn sẵn có tánh Phật, do nghiệp tập hư ảo che khuất khiến tâm luôn luôn bất an, tự mình trói buộc mình vào đau khổ. Chỉ cần không dính mắc, không mong cầu gì khác, xoay trở về tâm chân thật thì tự tại. Tất cả mọi loài trên thế gian đều trải qua quy luật sanh già bệnh chết do vô thường chi phối. Như hình ảnh vượn, ngựa, người hiện tướng nhọc nhằn, mệt mỏi để cuối cùng đưa đến già nua, suy kiệt. Duy chỉ còn nguyên một chõng thiền trong ngôi nhà nhỏ trên núi. Mặc cho cuộc đời biến chuyển, con người đổi thay từ trẻ đến già nhưng ở đó tâm người ngồi trên giường thiền vẫn không có gì thay đổi. Điều này nói lên dù thế gian có muôn ngàn biến chuyển, nhưng người đạt được tâm chân thật thì trước sau như một, không bao giờ đổi dời. Được như vậy là giải thoát sanh tử, không còn bị luân hồi chi phối.

Hôm nay nhân đầu năm, tôi kính chúc tất cả Tăng Ni hãy cố gắng tu và sống đúng với những gì Phật Tổ đã chỉ dạy.
HT. Thích Thanh Từ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2246)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2514)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2544)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2076)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2529)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1868)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1959)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2243)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2772)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1686)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1604)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1791)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1629)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2199)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2357)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2066)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1854)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1777)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1963)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1701)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2669)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1835)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2172)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2137)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2475)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1793)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1982)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1861)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2034)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2603)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3647)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2280)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2287)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1661)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1974)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2310)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2303)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2148)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3107)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2125)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2515)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2045)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1977)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2179)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2471)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2034)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2438)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2398)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2979)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 2047)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant