Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nếp Sống Của Một Thiền Sư

24 Tháng Hai 201905:56(Xem: 7364)
Nếp Sống Của Một Thiền Sư
NẾP SỐNG CỦA MỘT THIỀN SƯ

Rich Orloff
Cao Huy Hóa

Nếp Sống Của Một Thiền Sư


Lời người dịch:
Nhà sư Phật giáo sống như thế nào sau cánh cửa thiền? Đây là điều mà người bình thường cả Đông lẫn Tây đều khó có điều kiện được biết. Thỉnh thoảng, mới có người may mắn được hầu chuyện một nhà tu hành để có một ít nhận thức về thế giới của người tu hành, về chính nhà tu hành đó, qua đó, hiểu thêm về Tam bảo, và cảm nhận đạo của từ bitrí tuệ, đạo của giác ngộgiải thoát.

Nhà tu hành ở đây là Tỳ-kheo Thanissaro, tên Thái Lan nhưng lại là một người Mỹ, Geoffrey Furguson DeGraff, nên được biết dưới cái tên thân tình: “Than Geoff ”, nguyên là sinh viên Đại học Oberlin thuộc bang Ohio, Hoa Kỳ, say mê nhạc cổ điển, tiếp xúc với Phật giáo khi còn là học sinh trung học. Sau khi tốt nghiệp đại học năm 1971, Than Geoff đến Thái Lan trong một chương trình trao đổi văn hóa với châu Á trong hai năm. Năm 1976, ông trở lại Thái Lan để xuất gia theo truyền thống Tòng lâm thuộc Phật giáo Nguyên thủy Theravada Thái Lan. Năm 1991, ông trở về Hoa Kỳ gây dựng thiền viện Metta Forest Monastery tại San Diego, bang California. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm viết về đạo Phật.

Người được may mắn hầu chuyện với nhà sư Than Geoff là nhà viết kịch Rich Orloff, cũng là cựu sinh viên Đại học Oberlin. Nội dung cuộc trò chuyện được Rich Orloff ghi lại dưới tựa đề “Beeing a monk. A conversation with Thanissaro Bikkhu” được đăng trên web-site BuddhaChannel. Dưới đây là phần lược dịch một số ý chính trong cuộc trò chuyện thú vị này.

Một ngày tiêu biểu của sư như thế nào? Bắt đầu từ 8 giờ sáng, và đồng hồ reo

Tôi dậy lúc 4 giờ sáng.

Sư để đồng hồ reo lúc 4 giờ sáng?!

Tôi hầu như thức dậy mà không cần báo thức. Nếu tôi đã trải qua một đêm dài trước đó, thì có thể 5 giờ tôi mới dậy. Tôi ngồi thiền khoảng 2 giờ.

Một mình sư hay với cả nhóm?

Một mình.

Có ngày nào sư cảm thấy khó khăn khi phải ra khỏi giường?

Có những lần khi tôi nói, “Tôi nghĩ mình sẽ thực tập thiền nằm”.

Tôi cũng giỏi thiền nằm lắm! Điều đó hợp lệ. Đối với tôi, sáng tinh mơ là thời gian tốt nhất để thiền. Tôi luôn luôn nghĩ rằng nếu không thức dậy và hành thiền lúc đó, tôi mất dịp may. Bên ngoài trời dịu mát. Có một bầu không khí tĩnh lặng tuyệt đối. Tôi hành thiền cho đến bình minh, và rồi tôi trở lại đây (khoảng không gian chung cho thiền viện) và giúp việc quét tước, lau chùi với những vị sư khác.

Có chuông reo không, hay sư biết khi nào thì dừng hành thiền?

Tôi biết. Và tôi có một đồng hồ nhắn tin nhỏ.

Ở Thái Lan, các nhà sư đi khất thực mỗi buổi sáng để nhận thức ăn, rời tu viện ôm theo bình bát để Phật tử cúng thức ăn vào. Việc đó có xảy ra tại San Diego không? Sư có nhảy vào một chiếc xe hơi rồi lái xe qua những vùng ngoại ô?

Chúng tôi ôm bình bát của mình tới nhà khách. Mọi người chuẩn bị thức ăn trong nhà bếp.

Những ai ở đó?

Những người đến thăm tu viện và tập thiền, những người xin xuất gia. Một thanh niên làm việc trong vườn cây ăn quả cũng thỉnh thoảng có mặt. Cũng có những người Thái và Lào đến để cúng dường thức ăn.

Mỗi ngày sư chỉ ăn một bữa. Liệu có đủ chất dinh dưỡng? Có đủ protein?

So với lúc tôi tốt nghiệp Đại học Oberlin thì tôi nặng thêm hơn 15 ký.

Nhưng sư có cảm thấy đói?

Năm đầu tiên ở Thái Lan thật là khó khăn, vì cơ thể tôi phải điều chỉnh với sự thay đổi về chế độ ăn uốngchuyển hóa. Tôi tu theo lối khổ hạnh, vì thế tôi không quan tâm đến việc bị gầy đi. Một phần vì tôi chán chường nước Mỹ. Tôi muốn đến một nơi với lối sống thiên nhiên, tiền hiện đại. Thái Lan được xem như là gần tiền hiện đại nhất.

Một buổi sáng, khi tôi đang đi khất thực, bất chợt tôi có cảm tưởng như đang sống cuộc sống thời săn bắt hái lượm. Chúng tôi không được phép tích trữ thức ăn; chúng tôi không trồng trọt mùa màng. Chúng tôi ăn những gì nhận được trong ngày, chỉ có thế. Một giờ mỗi ngày dành cho chuyện ăn, và như thế bạn tự do suốt thời gian còn lại trong ngày.

Sau bữa ăn, sư làm việc gì?

Chúng tôi dọn rửa, và mọi người trở về liêu của mình. Chúng tôi lại gặp nhau vào lúc 5 giờ chiều.

Và suốt cả ngày?

Phần lớn là thiền. Cũng có đọc sách nữa. Tôi tự giới hạn cho mình trong hai giờ để viết.

Trong liêu hhông có giường, chỉ có cái nệm cho sư trải ra ban đêm. Cũng có máy vi tính và máy in. Sư có nhận e-mail?

Không, nhưng một trong những người ủng hộ chúng tôi đã tạo một website.

Sư bảo mọi người ở đây cùng tập hợp lúc 5 giờ chiều. Đó có phải là giờ hạnh phúc?

Đó là giờ để cho khách thăm thiền viện đặt câu hỏi và được trả lời. Mọi người được tự do cho đến 8 giờ; khi đó chúng tôi có một thời tụng kinh, kéo dài khoảng 20 phút. Rồi thì một giờ thiền theo nhóm và thường thường là một bài pháp thoại.

Những loại câu hỏi gì mà khách đặt cho sư?

Ồ, mọi thứ, từ những vấn đề về thiền cho đến những vấn đề về quan hệ. Đối xử với con trẻ thế nào, đối xử với cha mẹ thế nào. Làm thế nào để ra khỏi trạng thái không lành mạnh. Làm thế nào duy trì cam kết trong một tình huống khó khăn. “Tôi nên theo đuổi việc được tăng lương hay tôi nên kiếm thêm thì giờ để tập thiền?”. Tôi thường có khuynh hướng trả lời, “Hãy dành nhiều thời gian để thiền. Quý vị không cần quá nhiều tiền”.

Khi nào sư đi ngủ?

Thường là khoảng 11, 12 giờ.

Sư chỉ ngủ 4 hay 5 giờ?

Vậy là đủ rồi. Thiền làm giảm rất nhiều cái nhu cầu căng thẳng về giấc ngủ.

Sư có chợp mắt không?

Vào lúc xế chiều.

Nhiều người cho rằng đạo Phật là chống khoái lạc: không rượu, không thuốc, không trác táng. Trong đó cũng có những thứ tôi thích. Có bao giờ sư thấy tiếc nhớ những thứ ấy?

Cái mất lớn nhất đối với tôi là nhạc cổ điển. Tôi đã dính mắc vào nhạc cổ điển. Khi tôi say mê nghe đủ thứ nhạc trong những năm qua, tôi nghĩ đó là một thời gian đẹp.

Khi bắt đầu hành thiền, tôi khởi sự đắm mình vào những trạng thái ở đó tôi có cùng cái cảm tưởng say mê như khi mình được thưởng thức một cuộc trình diễn xuất sắc về nhạc cổ điển. Tôi nghĩ, “Ôi, kỳ lạ thật, mình có thể đạt được cái cảm giác ấy chỉ bằng cách ngồi ở đây và thở”. Lúc trước, tôi đã phải lo nghĩ về dàn âm thanh nổi và liệu những cái đĩa nhạc của mình có bị xước vẹt hay không. Tôi đã cần mọi thứ đồ đạc xung quanh chỉ để đạt được một liều ma túy khoái cảm.

Có bao giờ sư nghe nhạc cổ điển?

Điều đó trái với giới luật. Khi tôi trở về nhà, cha tôi mở nhạc bất kể lúc nào, vì thế tôi có nghe. Thỉnh thoảng Brahms hay Mahler đi vào trong đầu tôi. Nhưng đó là ở cái hoàn cảnh mà bạn không thể tránh được.

Phim nào mới nhất mà sư đã xem?

Lần đầu tôi thấy phim Lord of the Rings (Chúa tể của những chiếc nhẫn) là trên chuyến bay đến Thái Lan, nhưng tôi đã không lắng nghe. Có một giới điều là không xem trình diễn; ta cần phải hướng vào nội tâm.

Sư có được phép giải trí theo một cách nào đó?

Đối với chúng tôi, giải tríđi vào nơi hoang dã. Ngồi trên bờ của Kẽm núi lớn (Grand Canyon bên dòng sông Colorado) và thiền, thỉnh thoảng mở bừng mắt ra, ngắm Kẽm núi lớn, rồi lại thiền nữa. Chúng tôi thực hiện nhiều cuộc thiền hành; đây là điều thực sự được nhấn mạnh trong truyền thống. Khi có cơ hội, hoặc khi tôi đã cảm thấy ở trong tu viện lâu quá rồi, tôi ra ngoài và đi dã ngoại một lúc.

Ngoài ra sư có tập thể dục?

Quét dọn rất nhiều. Có một số nhà sư phương Tây và nhà sư Thái hiện đại tập yoga trong phòng.

Nhưng sư không thể nói, “À, tôi đã thiền suốt ngày, bây giờ tôi chơi bóng đá một chút”.

Không.

Sư có được phép đọc sách cho vui không?

Đến một lúc bạn không còn thích tiểu thuyết nữa. Tiểu thuyết duy nhất mà tôi đọc ngày nay là của người bạn Jeanne Larsen (học cùng lớp năm 1971, tác giả của 3 tiểu thuyết về Trung Hoa) và Harry Potter.

Vì sao lại là Harry Potter?

Tôi nghĩ bộ sách đó dạy những bài học hay về lòng trung thành, tính chính trực, và những phẩm chất đại loại như thế.

Nếu Harry Potter là được, tại sao Robert Ludlam thì không?

Tôi phải dùng sự phán đoán của tôi. Những thứ tôi đang đọc có phù hợp với đường lối thiền định của mình không? Nếu tôi nhận ra rằng khi nhắm mắt lại và thấy những ảo tưởng mà không giúp tôi một chút nào, thế thì hiển nhiên cái đó tôi không nên đọc.

Sư có theo dõi tin tức thế giới không?

Chỉ một hay hai năm sau này. Tôi đọc báo The Nation The Guardian Weekly. Tôi thực sự thích những năm

ở Thái Lan khi tôi không biết bất kỳ một tin tức nào. Trong tám năm đầu tu tập của mình, những tin tức quốc tế đã đến được với tu viện chỉ là “Elvis Presley đã qua đời” và “tàu vũ trụ Skylab đang rơi”.

Sư có mất nhiều thời gian để thích nghi với đời sống độc thân?

Thử thách đầu tiên mà bạn phải đương đầu là không muốn quan tâm đến nó, sự quyến rũ của dục vọng. Nhưng sau một thời gian tôi bắt đầu cảm thấyđau khổ vì điều đó. Tuy nhiên, nếu tôi chú tâm vào dục vọng, chứ không phải là đối tượng của dục vọng, thì tôi bắt đầu ý thức rằng dục vọng chẳng phải là một điều tốt để được phép có mặt trong tâm thức.

Có bao giờ sư cảm thấy khao khát dục vọng?

Không.

Không bao giờ?

Bạn có thiền để quan tâm đến nó. Hễ khi nào dục vọng len lỏi vào tâm trí, bạn phải quan tâm đến nó.

Nghe có vẻ giáo điều quá.

Đó chính là giáo điều. Đó là một trong những bài học mà tôi tiếp thu từ thầy tôi, Đại sư Fuang: “Hãy khắc phục cảm xúc rồi ngồi xuống và làm việc”. Tôi nhớ lần đầu tiên thầy nói với tôi, “Được rồi, chúng ta sẽ hành thiền suốt đêm”. Tôi bảo,“Ôi trời, tôi không thể làm được việc đó! Tôi đã làm việc khó nhọc suốt cả ngày!” Thầy bảo, “Có phải việc ấy sẽ giết anh?” Không. “Vậy thì anh có thể làm được”.

Thế còn cái thèm muốn bình thường về sự đụng chạm? Một người thường có thể đụng chạm sư vào sư không?

Phụ nữ thì không được. Với đàn ông, còn tùy thuộc cách thức họ đụng chạm vào tôi. Không có đụng chạm dục vọng.

Một số người cho rằng các nhà sư đã vượt qua được những cảm xúc của con người và không bao giờ có các cảm xúc tiêu cực, như giận dữtham lam. Sư có bao giờ tức giận?

Thỉnh thoảng có những chuyện khiến mình phát cáu. Một người phụ nữ học trò của tôi tin chắc rằng tôi có ý riêng với cô ta. Cô ấy nghĩ tôi muốn bỏ tu viện để cưới cô ta. Tôi cố gắng làm rõ là tôi không hề có ý đó, nhưng cô ta cứ khăng khăng rằng tôi có ý riêng với cô ấy. Tôi bảo, “Xem kìa, cô không còn là sinh viên của tôi nữa. Tôi xin lỗi, chuyện đó không đến đâu hết”. Cô ta nghĩ tôi chỉ nói như thế là vì đang có nhiều người xung quanh. Cho nên cô ta bắt đầu cãi lại. Tôi thừa nhận có phát cáu. Nhưng cuối cùng cô ta đã nhận ra.

Vy, những nhược điểm nhỏ hơn thì thế nào? Sư có chút tự phụ nào không? Có khi nào sư thấy mình phải dành quá nhiều thời gian để chỉnh trang y phục hay không?

Áo xống thì có gì đặc biệt đâu. Chẳng có gì khiến tôi phải quan tâm đến chuyện ấy.

Thế còn tính tự hào?

Có chút ít. Khi tôi đang soạn những bài pháp thoại của mình, thỉnh thoảng tôi gặp bất chợt một câu nào đó và nghĩ, “câu ấy khá đấy chứ!

Sư có bao giờ sợ?

Tôi không muốn chết trước khi nơi này được xây xong.

Có đêm nào sư mất ngủ?

Đêm không ngủ cuối cùng mà tôi đã có là khi một trong những thầy tu ở chỗ tôi hoàn tục. Tôi cứ nghĩ, “Tôi đã làm sai điều gì?” Tôi đã nghĩ về câu hỏi này khi nằm xuống một lát, rồi tôi trở dậy và đi quanh một hồi. Rồi tôi ngồi xuống một chút. Tới một lúc, tôi ý thức, “Thật là buồn cười. Ta không thể có câu trả lời nào. Vì vậy tốt hơn là ta đừng hỏi nữa”. Đó là một trong những điều thiện xảo mà bạn học được trong lúc thiền định. Nếu bạn đặt câu hỏi, và không có được câu trả lời, thôi không hỏi nữa. Đấy chưa phải là lúc cho câu trả lời.

Có bao giờ sư cảm thấy tội lỗi?

Không.

Tội lỗi có phải là cảm xúc khó gạt bỏ nhất?

Vâng, đó là một khó khăn lớn. Nhưng ở Thái Lan, không có mặc cảm tội lỗi. Đó là văn hóa biết hổ thẹn (“Đừng làm điều đó; nó làm chúng ta ngượng nghịu trước những người láng giềng”), nhưng không phải là văn hóa tội lỗi (“Đừng làm điều đó, nó làm tôi khổ khi anh làm điều đó”). Những cảm giác tội lỗi đã khởi đầu cảm giác ngớ ngẩn, hết sức ngớ ngẩn. Con người thực hiện tốt vai trò của mình và sống hoàn toàn bình thường mà không cần cảm thấy tội lỗi.

Có phải sư muốn thay tội lỗi bằng hổ thẹn?

Nếu tôi làm điều gì mà tôi thực sự biết lẽ ra tôi không nên làm, khi ấy tôi cảm thấy hổ thẹn.

m thế nào đối phó với hổ thẹn khi ta cảm thấy điều đó?

Đại sư Fuang dạy rằng chúng ta không thể ngồi đó mà xoay quanh mãi một vấn đề. Quan điểm ấy là: bạn đã nhận biết rằng bạn sai lầm, vậy đừng lặp lại điều ấy. Đó là điều tốt nhất có thể đòi hỏi được ở một con người.

Sư cũng tin vào sự chuộc lỗi?

Bạn xin sự khoan dung của người mà bạn đã cư xử xấu. Trong ngôn ngữ Thái, những nhà sư được xem như không phải là người bình thường, mà là “đối tượng thiêng liêng”. Sư

có tự nhận mình như là đối tượng thiêng liêng?

Không.

Sư tự nhận như thế nào?

Như một con người. Mặc dầu trang phục khác thường, nhưng bên trong trang phục, có một con người.

Có những cảnh giới nào của đạo Phật vẫn còn huyền bí đối với sư?

Tôi muốn biết sự giác ngộ toàn vẹn như thế nào.

Có bao giờ sư nghĩ đến việc hoàn tục?

Bea Camp (bạn học năm 1972) có lần đến thăm tôi tại Thái Lan. Bà và chồng là David Summers (bạn học năm 1971) làm việc cho cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Bangkok. Hai người cho tôi biết tất cả những tin tức về những người bạn thân thiết một thời của chúng tôisự nghiệp không như mong đợi, rồi ly dị, ly thân, và thất vọng. David hỏi tôi, “Có bao giờ tiếc đã trở thành nhà sư?”. Và tôi đáp, “Ý nghĩ đó chẳng bao giờ vấn vương tâm trí tôi, nhất là bây giờ”.

Một câu hỏi cuối. Khi sư ở Thái Lan, phải chăng có một lúc “Eureka!” khi sư đã nghĩ, “tôi đã tìm được điều cần tìm”?

Nhà sư không thể nói về những gì đạt được.

Tôi nói “cám ơn” có được không?

(Nhà sư cười vui).

Nguyên tác: Beeing a monk: A conversation with Thanissaro Bikkhu, Rich Orloff.

Nguồn: Buddhist Channel

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 795)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 956)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 993)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 749)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 763)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1291)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1152)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1034)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1125)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1239)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1173)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1748)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1147)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1173)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant