Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc: Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa của HT Thích Bảo Lạc

25 Tháng Hai 201908:53(Xem: 5093)
Đọc: Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa của HT Thích Bảo Lạc
Đọc: Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa 
của HT Thích Bảo Lạc                                                  

Trần Đan Hà

 

Dao Duc Hoc Phat Giao Dai Thua Tết Nguyên Đán Kỷ Hợi năm nay gần ngày cuối của thượng tuần tháng hai. Nên thời tiết đã trở nên ấm áp hơn, như có khí sắc lập xuân. Ngày cũng có cảnh nắng nhạt điểm mưa thưa, có gió heo may làm gây gây lạnh. Cái lạnh giống hệt cảnh Tết ở quê quê nhà.

Chỉ thiếu hình ảnh mai vàng thiệp xuân, cây nêu đầu ngõ. Trên bàn thờ cũng thiếu bánh tét, bánh chưng là hương vị của ngày xuân muôn thuở. Bổng dưng thấy mình thật bơ vơ nơi xứ lạ quê người. Nỗi buồn ly hương ấy thấm càng lâu càng đậm. Nên lòng cũng hững hờ mỗi lần xuân về tết đến.

  Nhưng Tết năm nay tôi lại được may mắn đón nhận một món quà vô cùng trân quý. Đó là món quà của Sư Bá ở tận nửa bán cầu của xứ Úc xa xôi gởi cho. Tác phẩm mới xuất bản của Ôn với tựa là: “Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa. Món quà như ghi dấu một tấm lòng thương yêu và nhắc nhỡ cho con luôn trau dồi thân tâm, giữ gìn giới hạnh để xứng đáng là người Phật tử. Con xin nhất tâm kính lễ cảm tạ tấm lòng của Ôn chẳng những dành cho con, mà đây còn là “Tâm sự của Ôn từ nghìn trùng gởi đến cho các thế hệ tương lại.... Một tác phẩm như đang mở ra con đường dẫn mọi chúng sinh trở về với nguồn hạnh phúc, an lạc. Thấy một điều rất thú vịchương trình giáo dục bắt nguồn từ “cõi nhân gian” sau đó mới đến “chốn thiền môn”.Nói khác là hành trình “dẫn đời vào đạo. Với mục đích làm cho cuộc sống được tỏa sáng nguồn hạnh phúc vốn hằng hữu trong mỗi một con người chúng ta.

   Với một khái niệm được định nghĩa như:

  “Vấn đề đạo đức không mới lạ đối với chúng ta mà đã có từ buổi bình minh của xã hội loài người; từ thời loài người còn bán khai mông muội, đời sống chật vật, ăn lông ở lỗ chưa biết hổ ngươi, cho tới ngày nay đã trải qua hằng triệu triệu năm, qua nhiều lần thoát xác, học hỏi, cải tiến để tiến tới giai đoạn thăng hoa của nền văn minh khoa học hiện đại...(trang 17).

  Qua đó chúng ta thấy “Nền Đạo Đức của cõi nhân gian”. Được cải thiện qua nhiều thế hệ theo thời gian, và vẫn tiếp tục cải tiến. Xét cho cùng thì nền “đạo đức học” ấy vẫn chưa được hoàn thiện tuyệt đối. Vì luật pháp ngoài dân gian thì có nhiều học thuyết, có nhiều chủ nghĩa khác nhau. Nên còn có kẻ hở để con người luồn lách mà tạo nên nghiệp ác.

   Như dưới chủ nghĩa cộng sản thì chủ trương độc tài đảng trị, mọi tài sản của dân đều quy về của chung nhà nước. Nên chúng dễ bề bán đất bán biển cho ngoại bang để chia nhau. Thành lập hợp tác xã sản xuất thì nhà nước quốc doanh, cán bộ ngồi chơi xơi nước thì nhiều, mà người lao động làm ra của cải thì ít. Nhưng sản phẩm thì lại được chia đều cho toàn thể xã viên. Do đó mà vấn đề thực phẩm không bao giờ đáp ứng cung cầu cho toàn dân. Ngoài ra, tệ nạn tham nhũng vẫn lan tràn từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài của cán bộ nhà nước.

   Còn về thể chế tư bản chủ nghĩa thì quốc hội chia ra nhiều ngành như: Lập pháp (là cơ quan thành lập quốc pháp, hiến pháphành chánh). Hành pháp (là cơ quan chính phủ hiện điều hành xã hội về chính trị, kinh tế, giáo dục...). Tư phápcơ quan giải thích Hiến pháp, kiểm tra các quyết định của Tổng thống (tối cao pháp viện). Để gìn giữ nền độc lập dân chủ. Thế nhưng thực tế thì các ngành đều có thể “lạm dụng sự tự do” để trục lợi cá nhân.

   Qua đó, cho thấy “Thế gian pháp” dù thuộc chủ nghĩa nào đi nữa cũng vẫn còn “bất cập, bấp bênh”. Vì con người sinh ra vốn dĩ đã mang nhiều nghiệp tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... nên xã hội có đặt ra những luật pháp gì đi nữa thì không bao giờ có thể ngăn ngừa được cái xấu ác, vì không mấy ai tuân theo.

 (Lâm Hán-Việt từ điển: “Đạo đức là lý lẽ, phép tắc mà mọi người nên theo; và những hành vi hợp lý lẽ phép tắc đó gọi là đạo đức. (Tác giả Vĩnh Cao-Nguyễn Phố, nxb Thuận Hóa 2001).

  Sách chia làm nhiều phần, nhưng chủ yếu hai phần quan trọng nhất là: “Đạo đức học Thế gian phápđạo đức học Xuất thế gian pháp

  Giới thiệu tổng quát:

  Bậc Tổ Đức dạy: “Từ cổ chí kim, các bậc trí giả đều công nhận rằng, sự phong phú và đẹp đẻ của con người, không gì hơn là đạo đức. Như vậy, nên từ gia đình đến học đường và ngoài xã hội cần phải có phong cách lương thiện, thuần mỹ để duy trì, tồn tại... Đạo đức chính là dòng nước thiêng liêng tươi mát tưới tẩm mầm móng tốt đẹp của gia đìnhxã hộithái độ tuân thủ của mỗi người là bí quyết cho mọi người trong cộng đồng nhân loại khơi dòng thanh lương tươi sáng đó(trích lời nói đầu: Sử lý lễ tụng của HT Tố Liên chùa Đức Viên Hoa Kỳ tái bản năm 1982) (trang 73).

 

 Sơ lược về đạo đức học “thế gian pháp:

  Về chi tiết từng phần thì: a)- Phong cách đạo đức gồm: -Tác phong đạo đức và -Đạo phong khả kính. (như lúc còn nhỏ thì đi thưa về trình, gọi dạ bảo vâng, hiếu trung gìn giữ. Bổn phận đối vời gia đình thì: chồng vợ, cha mẹ, con cái; đối với tổ quốc: xã hội quốc gia. b)- Mệnh lệnh đạo đức gồm bốn lãnh vực: Gia đình, học đường, các bộ sở, tòa án, mỗi lãnh vực đầu có cương lãnh giữ mối giềng đạo đức cho con người. d)-Truyền thống đạo đức:- Nghĩa thầy trò, trong gia đình với các thành viên...

 “Nói cách khác đạo đức là bổn phận mà mọi người phải theo để tạo nên một xã hội an bình, ổn định và lành mạnh. Như vậy, đạo đức hay phép tắc đạo lýcon người luôn luôn gìn giữ, bảo trọng, trân quý như món gia bảo truyền thống từ ông cha để lại mới bảo đảm được giá trị làm người. Từ một tổ hợp thu hẹp như gia đình của một ít thành viên sống có nề nếp đàng hoàng, đến tổ chức học đường có nội quy, kỷ luật áp dụng cho các cấp lớp đối với học sinh, sinh viên. Rộng hơn các tổ chức hiệp hội, kinh doanh, nghiệp đoàn, chính phủ, mới giữ vững và duy trì cũng như phát triển tổ chức thuận lợi, dễ dàng. (trang 17).

   Trên đây là quan điểm của tác giả về việc giáo dục “bằng thế gian phápnhằm xây dựng con người từ một cá thể, đến gia đình và hội nhập vào cộng đồng của xã hội. Từ những định nghĩa về đạo đức là phép tắc đạo lýcon người cần gìn giữ, trân trọng như những báu vật của ông cha chúng ta để lại. Vì đạo đức học là môn học tạo nên một xã hội an bình, ổn định và lành mạnh. Mặc dù thế gian pháp chưa được hoàn thiện, nhưng lịc sử đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, nếu trong một xã hội mà không được giáo dục nhân bản, có đạo đức thì nhân tâm sẽ bị phân hóa và xã hội ấy sẽ băng hoại. Như bằng chứng mà tác giả đã trích dẫn trong “lời nói đầu” rằng, nước ta là một nước nhược tiểu, lại bị các cường quốc tranh giành ảnh hưởng bằng cách tạo ra chiến tranh buôn bán vũ khí và quân dụng để trục lợi. Họ luôn tạo ra những nguyên nhân để dựng nên guồng máy chiến tranh. Như sau khi đất nước chúng ta bị chia đôi vào ngày 20.7.1954, miền Bắc nghe theo quan thầy cộng sản quốc tế Liên xô và Trung quốc xua quân tiến chiếm miền Nam. Vì thế Hoa Kỳ có cơ hội can thiệp với lý do bảo vệ miền Nam. Chiến tranh bùng nổ từ ấy, cuối cùng thì toàn dân của hai miền Nam-Bắc Việt Nam phải gánh chịu bao cảnh đổ vở, tan nát vì chém giết và hận thù...!

  Trên đây là khái quát về đạo đức học của thế gian (thế gian pháp). Cũng do các bậc cổ đức chế tác ra, nhưng dĩ nhiên quan niệm vẫn còn hạn hẹp trong phạm vi cá nhân chưa trải nghiệm hoàn toàn. Cần có sự cải tiến của thức giả với cái học mỗi ngày mỗi văn minh và tân tiến. Nhưng có lẽ, sự cải tiến ấy chỉ tốt hơn mà thôi chứ không bao giờ có thể toàn thiện được.

 

  Đạo đức học của “Xuất thế gian pháp”:

  Đạo đức học của xuất thế gian pháp (tức Phật pháp). Thì tác giả cũng ưu ái chọn lựa những pháp môn căn bản dành cho bậc sơ học. Bằng bước chân vững chải đi lên từ bậc Hướng thiện. Sơ thiện. Trung thiện rồi lên Chánh thiện. Và khẳng định các pháp được đức Phật chế tác ra đều là chân pháp, thật ngữ. Những lời chánh ngữ ấy được bảo chứng như chính Ngài trong đời sống hiện tại. Mà lịch sử đã chứng minh, thế giới đã công nhận Đức Phật là một vị đã đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn.

  Những pháp môn được giới thiệu trong sách Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa nầy cũng bắt đầu từ pháp môn đầu tiên, dành cho người Phật tử sau khi Quy Y Tam Bảo rồi cần phải thọ trì đó là Năm Giới“Ngũ Giới hay năm điều răn Phật chế định cho các hàng đệ tử tuân theo giữ gìn cẩn thận, nhờ vậy tránh được nghiệp báo vay trả đời nầy, kiếp khác, thoát ly sanh tử luân hồi, nếu tin giữ đúng theo lời Phật dạy, hẳn đạt giải thoát ngay trong đời nầy, không thể nào sai khác. Bởi lẽ, lời của Phật là chân ngữ, thật ngữ không quanh co, lời chánh ngữ có bảo chứng như chính Ngài trong đời sống hiện tại”: (Năm giới là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). (trang 156).

  2)- Thập Thiện (mười nghiệp lành). Gồm có Năm Giới cộng thêm các giới : Không nói lời thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác, không tham lam, không sân hận và không tà kiến hay si mê.

  3)- Tứ Diệu Đế gồm có: Khổ Đế, (Khổ có rất nhiều qua tâm sinh lý nhưng không ngoài hai thứ: khổ vật chất và khổ tinh thần...). Tập Đế  (là nguyên nhân của sự đau khổ...) Diệt Đế (là chân lý chắc thật trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy cái vui thú của sự hết khổ) và Đạo Đế (là những phương pháp đúng đắn, chắc thật để diệt trừ đau khổ...).

  4)- Bát Thánh Đạo (là tám món thuốc linh diệu được chữa lành các chứng bệnh hiểm nghèo về thân bệnh và tâm bệnh của tâm sinh lý con người. Tám môn thuốc ấy là: Chánh kiến. Chánh tư duy. Chánh ngữ. Chánh nghiệp. Chánh tinh tấn. Chánh mạng. Chánh niệm. Chánh định).

  5)- Mười Hai Nhân Duyên (hay mười hai pháp duyên khởi) gồm có: Vô minh. Hành. Thức. Danh sắc. Lục nhập. Xúc. Thọ. Ái. Thủ. Hữu. Sanh. Lão tử.

  6)- Nền móng của của người Phật tử nên học theo gương của Phật nhằm tu tập phá ngã, phá chấp để có thể học pháp bao hàm không bị kẹt vào danh từ như Tiểu thừa, Đại thừa, Thanh văn, La hán, Độc giác, Bồ tát v.v

a). Phát Tâm Đại Thừa. b). Tứ Vô Lượng Tâm. (gồm có Tứ vô lượng tâm. Bi vô lượng tâm. Hỷ vô lượng tâm. Xã vô lượng tâm.

  7)- Lục Ba La Mật (là sáu pháp môn tu đạt đến giải thoát rốt ráo của hàng Bồ tát). Gồm có: Bố thí. Trì giới. Nhẫn nhục. Tinh tấn. Thiền định. Trí huệ.

  8)- Tam Tụ Tịnh Giới gồm có:

  a)-Nhiếp luật nghi giới (“Cũng gọi là Tự Tánh giới, Nhất thiết Bồ tát giới: chỉ cho môn ngăn ác, bao hàm mọi luật nghi, dứt bỏ tất cả các điều ác...) b)- Nhiếp thiện pháp giới (cũng gọi Thọ Thiện Pháp giới, Nhiếp trì nhất thiết Bồ tát đạo giới, nghĩa là tu tập tất cả các pháp lành...) c)- Nhiêu ích hữu tình giới. (cũng gọi Nhiếp chúng sanh giới, Tác chúng sanh ích giới. Nghĩa là vận dụng từ tâm nhiếp thọ làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, đây là môn lợi ích...)

  9)- Tam Giải Thoát Môn gồm có:

  a). Không môn (thuộc một hệ triết học Phật giáo mà người chủ trương lập thuyết là Bồ Tát Long Thọ) b). Vô tướng môn (bao gồm các phủ định một sự thể của Trung quán luận. Vì là pháp hành nên không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được!). c). Vô nguyện môn (Vô nguyện là không mong cầu điều gì; cũng gọi Vô tác là không tạo tác bất cứ hành vi xấu ác nào dù nhỏ thế mấy đi nữa...).

10). Tứ Hằng Thệ Nguyện:

  a). Nguyện độ chúng sanh. (Chúng sanh tuy nhiều, nhưng không ngoài bốn loài: thai sinh, loài sinh bằng bào thai; noản sanh, loài sinh bằng đẻ trứng; thấp sanh là loài sanh nơi ẩm thấphóa sanh là loài biến hóa...).

   b). Núi phiền não cao nguyện san bằng.

   c). Nguyện học hết các pháp môn.

   d). Phật đạo thệ nguyện thành.

   “Từ hàng vô văn phàm phu còn thô lậu bởi phiền não nhiễm ô của ba nghiệp: thân, khẩu, ý tạo nên không biết bao nhiêu quả báo xấu ác, từ đời nầy qua kiếp khác. Cộng với tam độc: tham, sân, si khiến chúng sanh trôi lăn xoay chuyển trong nhiều kiếp luân hồi chưa có lối thoát không biết nẽo ra. Nay gặp được Phật pháp, minh sư hướng dẫn, chúng ta về nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng là ba ngôi báu như hải đảo an toàn cho tự thân để thăng hoa hướng thượng...” (trang 279).

    Sau cùng là: Những cuộc đối thoại lừng danh lịch sử cổ kim cho nhân loại những bài học giá trị đích thực vẫn tồn tại mãi với thời gian: 1).Gương hoằng pháp vô úy Tôn Giả Phú Lâu Na. 2). Cuộc đàm thoại giữa Hiền giả và Vương giả Na Tiên Tỳ Kheo và Vua Di Lan Đà.

 3). Tâm cầu Pháp Siêu Việt Tổ Đạt Ma và Tổ Huệ Khả. 4). Phật Hoàng Trần Nhân Tông. 5). Dấu ấn khó thể phai mờ.

 

   Lời kết.

 Cuốn sách như mở ra một con đường cho nhân sinh đi về với nguồn hạnh phúc, bình an. Muốn tìm được con đường thì cần phải đọc chi tiết toàn bản văn, suy nghiệm những lý lẽ mới thấy được tư tưởng của cổ đức phát tiết ra ngoài hiện thực thiên nhiên, như những giọt sương mai đang tưới tẩm cho nguồn hạnh phúc của hoa lá cỏ cây. Tự nhiênbình đẳng bởi những tấm lòng ban rãi tâm từ xuống vạn vậtcõi ta bà nầy đều là “Tâm không. Những bài học làm người dành cho nhân sinh đã có từ thuở hồng hoang nào vẫn còn có giá trị, vì muốn nên người thì cần phải làm những công việc như người xưa đã nói: “tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Đối với người Phật tử thì cần phải phát tâm thọ trìphát nguyện tu tập các pháp giải thoát, để mong cầu hạnh phúc, bình an. Và tinh tấn tiếp tục tu học lên cao nữa. Vì thế cho nên có thể nói cuốn sách “Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừalà cuốn cẩm nang chứa đựng những “cẩm tâm tú khẩu” của cổ đức dành cho nhân sinh qua hai bình diện: “Thế gian pháp và Xuất thế gian pháp”. Là cuốn “giáo khoa thư” rất đặc biệt dành cho người bắt đầu học từ cấp hướng thiện trở lên, và những người không có nhân duyên gần gủi với Thầy chỉ đạo. Sách gối đầu cho những ai muốn làm người chân chính, thanh lươngđi theo con đường giác ngộ, giải thoát ./.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1315)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1213)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1276)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1293)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1933)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1311)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1321)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1204)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1444)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1286)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1180)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1147)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1187)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1201)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1329)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1060)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1050)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1110)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1240)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1276)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1032)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1152)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1098)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1230)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1223)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1351)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1429)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1197)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1184)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1323)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1348)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1275)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1577)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1244)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1259)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1288)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1149)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1180)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1290)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1406)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1411)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1565)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1423)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1347)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1117)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1220)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1190)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1254)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1225)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant