Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc: Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa của HT Thích Bảo Lạc

25 Tháng Hai 201908:53(Xem: 5159)
Đọc: Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa của HT Thích Bảo Lạc
Đọc: Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa 
của HT Thích Bảo Lạc                                                  

Trần Đan Hà

 

Dao Duc Hoc Phat Giao Dai Thua Tết Nguyên Đán Kỷ Hợi năm nay gần ngày cuối của thượng tuần tháng hai. Nên thời tiết đã trở nên ấm áp hơn, như có khí sắc lập xuân. Ngày cũng có cảnh nắng nhạt điểm mưa thưa, có gió heo may làm gây gây lạnh. Cái lạnh giống hệt cảnh Tết ở quê quê nhà.

Chỉ thiếu hình ảnh mai vàng thiệp xuân, cây nêu đầu ngõ. Trên bàn thờ cũng thiếu bánh tét, bánh chưng là hương vị của ngày xuân muôn thuở. Bổng dưng thấy mình thật bơ vơ nơi xứ lạ quê người. Nỗi buồn ly hương ấy thấm càng lâu càng đậm. Nên lòng cũng hững hờ mỗi lần xuân về tết đến.

  Nhưng Tết năm nay tôi lại được may mắn đón nhận một món quà vô cùng trân quý. Đó là món quà của Sư Bá ở tận nửa bán cầu của xứ Úc xa xôi gởi cho. Tác phẩm mới xuất bản của Ôn với tựa là: “Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa. Món quà như ghi dấu một tấm lòng thương yêu và nhắc nhỡ cho con luôn trau dồi thân tâm, giữ gìn giới hạnh để xứng đáng là người Phật tử. Con xin nhất tâm kính lễ cảm tạ tấm lòng của Ôn chẳng những dành cho con, mà đây còn là “Tâm sự của Ôn từ nghìn trùng gởi đến cho các thế hệ tương lại.... Một tác phẩm như đang mở ra con đường dẫn mọi chúng sinh trở về với nguồn hạnh phúc, an lạc. Thấy một điều rất thú vịchương trình giáo dục bắt nguồn từ “cõi nhân gian” sau đó mới đến “chốn thiền môn”.Nói khác là hành trình “dẫn đời vào đạo. Với mục đích làm cho cuộc sống được tỏa sáng nguồn hạnh phúc vốn hằng hữu trong mỗi một con người chúng ta.

   Với một khái niệm được định nghĩa như:

  “Vấn đề đạo đức không mới lạ đối với chúng ta mà đã có từ buổi bình minh của xã hội loài người; từ thời loài người còn bán khai mông muội, đời sống chật vật, ăn lông ở lỗ chưa biết hổ ngươi, cho tới ngày nay đã trải qua hằng triệu triệu năm, qua nhiều lần thoát xác, học hỏi, cải tiến để tiến tới giai đoạn thăng hoa của nền văn minh khoa học hiện đại...(trang 17).

  Qua đó chúng ta thấy “Nền Đạo Đức của cõi nhân gian”. Được cải thiện qua nhiều thế hệ theo thời gian, và vẫn tiếp tục cải tiến. Xét cho cùng thì nền “đạo đức học” ấy vẫn chưa được hoàn thiện tuyệt đối. Vì luật pháp ngoài dân gian thì có nhiều học thuyết, có nhiều chủ nghĩa khác nhau. Nên còn có kẻ hở để con người luồn lách mà tạo nên nghiệp ác.

   Như dưới chủ nghĩa cộng sản thì chủ trương độc tài đảng trị, mọi tài sản của dân đều quy về của chung nhà nước. Nên chúng dễ bề bán đất bán biển cho ngoại bang để chia nhau. Thành lập hợp tác xã sản xuất thì nhà nước quốc doanh, cán bộ ngồi chơi xơi nước thì nhiều, mà người lao động làm ra của cải thì ít. Nhưng sản phẩm thì lại được chia đều cho toàn thể xã viên. Do đó mà vấn đề thực phẩm không bao giờ đáp ứng cung cầu cho toàn dân. Ngoài ra, tệ nạn tham nhũng vẫn lan tràn từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài của cán bộ nhà nước.

   Còn về thể chế tư bản chủ nghĩa thì quốc hội chia ra nhiều ngành như: Lập pháp (là cơ quan thành lập quốc pháp, hiến pháphành chánh). Hành pháp (là cơ quan chính phủ hiện điều hành xã hội về chính trị, kinh tế, giáo dục...). Tư phápcơ quan giải thích Hiến pháp, kiểm tra các quyết định của Tổng thống (tối cao pháp viện). Để gìn giữ nền độc lập dân chủ. Thế nhưng thực tế thì các ngành đều có thể “lạm dụng sự tự do” để trục lợi cá nhân.

   Qua đó, cho thấy “Thế gian pháp” dù thuộc chủ nghĩa nào đi nữa cũng vẫn còn “bất cập, bấp bênh”. Vì con người sinh ra vốn dĩ đã mang nhiều nghiệp tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... nên xã hội có đặt ra những luật pháp gì đi nữa thì không bao giờ có thể ngăn ngừa được cái xấu ác, vì không mấy ai tuân theo.

 (Lâm Hán-Việt từ điển: “Đạo đức là lý lẽ, phép tắc mà mọi người nên theo; và những hành vi hợp lý lẽ phép tắc đó gọi là đạo đức. (Tác giả Vĩnh Cao-Nguyễn Phố, nxb Thuận Hóa 2001).

  Sách chia làm nhiều phần, nhưng chủ yếu hai phần quan trọng nhất là: “Đạo đức học Thế gian phápđạo đức học Xuất thế gian pháp

  Giới thiệu tổng quát:

  Bậc Tổ Đức dạy: “Từ cổ chí kim, các bậc trí giả đều công nhận rằng, sự phong phú và đẹp đẻ của con người, không gì hơn là đạo đức. Như vậy, nên từ gia đình đến học đường và ngoài xã hội cần phải có phong cách lương thiện, thuần mỹ để duy trì, tồn tại... Đạo đức chính là dòng nước thiêng liêng tươi mát tưới tẩm mầm móng tốt đẹp của gia đìnhxã hộithái độ tuân thủ của mỗi người là bí quyết cho mọi người trong cộng đồng nhân loại khơi dòng thanh lương tươi sáng đó(trích lời nói đầu: Sử lý lễ tụng của HT Tố Liên chùa Đức Viên Hoa Kỳ tái bản năm 1982) (trang 73).

 

 Sơ lược về đạo đức học “thế gian pháp:

  Về chi tiết từng phần thì: a)- Phong cách đạo đức gồm: -Tác phong đạo đức và -Đạo phong khả kính. (như lúc còn nhỏ thì đi thưa về trình, gọi dạ bảo vâng, hiếu trung gìn giữ. Bổn phận đối vời gia đình thì: chồng vợ, cha mẹ, con cái; đối với tổ quốc: xã hội quốc gia. b)- Mệnh lệnh đạo đức gồm bốn lãnh vực: Gia đình, học đường, các bộ sở, tòa án, mỗi lãnh vực đầu có cương lãnh giữ mối giềng đạo đức cho con người. d)-Truyền thống đạo đức:- Nghĩa thầy trò, trong gia đình với các thành viên...

 “Nói cách khác đạo đức là bổn phận mà mọi người phải theo để tạo nên một xã hội an bình, ổn định và lành mạnh. Như vậy, đạo đức hay phép tắc đạo lýcon người luôn luôn gìn giữ, bảo trọng, trân quý như món gia bảo truyền thống từ ông cha để lại mới bảo đảm được giá trị làm người. Từ một tổ hợp thu hẹp như gia đình của một ít thành viên sống có nề nếp đàng hoàng, đến tổ chức học đường có nội quy, kỷ luật áp dụng cho các cấp lớp đối với học sinh, sinh viên. Rộng hơn các tổ chức hiệp hội, kinh doanh, nghiệp đoàn, chính phủ, mới giữ vững và duy trì cũng như phát triển tổ chức thuận lợi, dễ dàng. (trang 17).

   Trên đây là quan điểm của tác giả về việc giáo dục “bằng thế gian phápnhằm xây dựng con người từ một cá thể, đến gia đình và hội nhập vào cộng đồng của xã hội. Từ những định nghĩa về đạo đức là phép tắc đạo lýcon người cần gìn giữ, trân trọng như những báu vật của ông cha chúng ta để lại. Vì đạo đức học là môn học tạo nên một xã hội an bình, ổn định và lành mạnh. Mặc dù thế gian pháp chưa được hoàn thiện, nhưng lịc sử đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, nếu trong một xã hội mà không được giáo dục nhân bản, có đạo đức thì nhân tâm sẽ bị phân hóa và xã hội ấy sẽ băng hoại. Như bằng chứng mà tác giả đã trích dẫn trong “lời nói đầu” rằng, nước ta là một nước nhược tiểu, lại bị các cường quốc tranh giành ảnh hưởng bằng cách tạo ra chiến tranh buôn bán vũ khí và quân dụng để trục lợi. Họ luôn tạo ra những nguyên nhân để dựng nên guồng máy chiến tranh. Như sau khi đất nước chúng ta bị chia đôi vào ngày 20.7.1954, miền Bắc nghe theo quan thầy cộng sản quốc tế Liên xô và Trung quốc xua quân tiến chiếm miền Nam. Vì thế Hoa Kỳ có cơ hội can thiệp với lý do bảo vệ miền Nam. Chiến tranh bùng nổ từ ấy, cuối cùng thì toàn dân của hai miền Nam-Bắc Việt Nam phải gánh chịu bao cảnh đổ vở, tan nát vì chém giết và hận thù...!

  Trên đây là khái quát về đạo đức học của thế gian (thế gian pháp). Cũng do các bậc cổ đức chế tác ra, nhưng dĩ nhiên quan niệm vẫn còn hạn hẹp trong phạm vi cá nhân chưa trải nghiệm hoàn toàn. Cần có sự cải tiến của thức giả với cái học mỗi ngày mỗi văn minh và tân tiến. Nhưng có lẽ, sự cải tiến ấy chỉ tốt hơn mà thôi chứ không bao giờ có thể toàn thiện được.

 

  Đạo đức học của “Xuất thế gian pháp”:

  Đạo đức học của xuất thế gian pháp (tức Phật pháp). Thì tác giả cũng ưu ái chọn lựa những pháp môn căn bản dành cho bậc sơ học. Bằng bước chân vững chải đi lên từ bậc Hướng thiện. Sơ thiện. Trung thiện rồi lên Chánh thiện. Và khẳng định các pháp được đức Phật chế tác ra đều là chân pháp, thật ngữ. Những lời chánh ngữ ấy được bảo chứng như chính Ngài trong đời sống hiện tại. Mà lịch sử đã chứng minh, thế giới đã công nhận Đức Phật là một vị đã đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn.

  Những pháp môn được giới thiệu trong sách Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừa nầy cũng bắt đầu từ pháp môn đầu tiên, dành cho người Phật tử sau khi Quy Y Tam Bảo rồi cần phải thọ trì đó là Năm Giới“Ngũ Giới hay năm điều răn Phật chế định cho các hàng đệ tử tuân theo giữ gìn cẩn thận, nhờ vậy tránh được nghiệp báo vay trả đời nầy, kiếp khác, thoát ly sanh tử luân hồi, nếu tin giữ đúng theo lời Phật dạy, hẳn đạt giải thoát ngay trong đời nầy, không thể nào sai khác. Bởi lẽ, lời của Phật là chân ngữ, thật ngữ không quanh co, lời chánh ngữ có bảo chứng như chính Ngài trong đời sống hiện tại”: (Năm giới là: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). (trang 156).

  2)- Thập Thiện (mười nghiệp lành). Gồm có Năm Giới cộng thêm các giới : Không nói lời thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác, không tham lam, không sân hận và không tà kiến hay si mê.

  3)- Tứ Diệu Đế gồm có: Khổ Đế, (Khổ có rất nhiều qua tâm sinh lý nhưng không ngoài hai thứ: khổ vật chất và khổ tinh thần...). Tập Đế  (là nguyên nhân của sự đau khổ...) Diệt Đế (là chân lý chắc thật trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy cái vui thú của sự hết khổ) và Đạo Đế (là những phương pháp đúng đắn, chắc thật để diệt trừ đau khổ...).

  4)- Bát Thánh Đạo (là tám món thuốc linh diệu được chữa lành các chứng bệnh hiểm nghèo về thân bệnh và tâm bệnh của tâm sinh lý con người. Tám môn thuốc ấy là: Chánh kiến. Chánh tư duy. Chánh ngữ. Chánh nghiệp. Chánh tinh tấn. Chánh mạng. Chánh niệm. Chánh định).

  5)- Mười Hai Nhân Duyên (hay mười hai pháp duyên khởi) gồm có: Vô minh. Hành. Thức. Danh sắc. Lục nhập. Xúc. Thọ. Ái. Thủ. Hữu. Sanh. Lão tử.

  6)- Nền móng của của người Phật tử nên học theo gương của Phật nhằm tu tập phá ngã, phá chấp để có thể học pháp bao hàm không bị kẹt vào danh từ như Tiểu thừa, Đại thừa, Thanh văn, La hán, Độc giác, Bồ tát v.v

a). Phát Tâm Đại Thừa. b). Tứ Vô Lượng Tâm. (gồm có Tứ vô lượng tâm. Bi vô lượng tâm. Hỷ vô lượng tâm. Xã vô lượng tâm.

  7)- Lục Ba La Mật (là sáu pháp môn tu đạt đến giải thoát rốt ráo của hàng Bồ tát). Gồm có: Bố thí. Trì giới. Nhẫn nhục. Tinh tấn. Thiền định. Trí huệ.

  8)- Tam Tụ Tịnh Giới gồm có:

  a)-Nhiếp luật nghi giới (“Cũng gọi là Tự Tánh giới, Nhất thiết Bồ tát giới: chỉ cho môn ngăn ác, bao hàm mọi luật nghi, dứt bỏ tất cả các điều ác...) b)- Nhiếp thiện pháp giới (cũng gọi Thọ Thiện Pháp giới, Nhiếp trì nhất thiết Bồ tát đạo giới, nghĩa là tu tập tất cả các pháp lành...) c)- Nhiêu ích hữu tình giới. (cũng gọi Nhiếp chúng sanh giới, Tác chúng sanh ích giới. Nghĩa là vận dụng từ tâm nhiếp thọ làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, đây là môn lợi ích...)

  9)- Tam Giải Thoát Môn gồm có:

  a). Không môn (thuộc một hệ triết học Phật giáo mà người chủ trương lập thuyết là Bồ Tát Long Thọ) b). Vô tướng môn (bao gồm các phủ định một sự thể của Trung quán luận. Vì là pháp hành nên không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được!). c). Vô nguyện môn (Vô nguyện là không mong cầu điều gì; cũng gọi Vô tác là không tạo tác bất cứ hành vi xấu ác nào dù nhỏ thế mấy đi nữa...).

10). Tứ Hằng Thệ Nguyện:

  a). Nguyện độ chúng sanh. (Chúng sanh tuy nhiều, nhưng không ngoài bốn loài: thai sinh, loài sinh bằng bào thai; noản sanh, loài sinh bằng đẻ trứng; thấp sanh là loài sanh nơi ẩm thấphóa sanh là loài biến hóa...).

   b). Núi phiền não cao nguyện san bằng.

   c). Nguyện học hết các pháp môn.

   d). Phật đạo thệ nguyện thành.

   “Từ hàng vô văn phàm phu còn thô lậu bởi phiền não nhiễm ô của ba nghiệp: thân, khẩu, ý tạo nên không biết bao nhiêu quả báo xấu ác, từ đời nầy qua kiếp khác. Cộng với tam độc: tham, sân, si khiến chúng sanh trôi lăn xoay chuyển trong nhiều kiếp luân hồi chưa có lối thoát không biết nẽo ra. Nay gặp được Phật pháp, minh sư hướng dẫn, chúng ta về nương tựa Phật, nương tựa Pháp, nương tựa Tăng là ba ngôi báu như hải đảo an toàn cho tự thân để thăng hoa hướng thượng...” (trang 279).

    Sau cùng là: Những cuộc đối thoại lừng danh lịch sử cổ kim cho nhân loại những bài học giá trị đích thực vẫn tồn tại mãi với thời gian: 1).Gương hoằng pháp vô úy Tôn Giả Phú Lâu Na. 2). Cuộc đàm thoại giữa Hiền giả và Vương giả Na Tiên Tỳ Kheo và Vua Di Lan Đà.

 3). Tâm cầu Pháp Siêu Việt Tổ Đạt Ma và Tổ Huệ Khả. 4). Phật Hoàng Trần Nhân Tông. 5). Dấu ấn khó thể phai mờ.

 

   Lời kết.

 Cuốn sách như mở ra một con đường cho nhân sinh đi về với nguồn hạnh phúc, bình an. Muốn tìm được con đường thì cần phải đọc chi tiết toàn bản văn, suy nghiệm những lý lẽ mới thấy được tư tưởng của cổ đức phát tiết ra ngoài hiện thực thiên nhiên, như những giọt sương mai đang tưới tẩm cho nguồn hạnh phúc của hoa lá cỏ cây. Tự nhiênbình đẳng bởi những tấm lòng ban rãi tâm từ xuống vạn vậtcõi ta bà nầy đều là “Tâm không. Những bài học làm người dành cho nhân sinh đã có từ thuở hồng hoang nào vẫn còn có giá trị, vì muốn nên người thì cần phải làm những công việc như người xưa đã nói: “tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ. Đối với người Phật tử thì cần phải phát tâm thọ trìphát nguyện tu tập các pháp giải thoát, để mong cầu hạnh phúc, bình an. Và tinh tấn tiếp tục tu học lên cao nữa. Vì thế cho nên có thể nói cuốn sách “Đạo Đức Học Phật Giáo Đại Thừalà cuốn cẩm nang chứa đựng những “cẩm tâm tú khẩu” của cổ đức dành cho nhân sinh qua hai bình diện: “Thế gian pháp và Xuất thế gian pháp”. Là cuốn “giáo khoa thư” rất đặc biệt dành cho người bắt đầu học từ cấp hướng thiện trở lên, và những người không có nhân duyên gần gủi với Thầy chỉ đạo. Sách gối đầu cho những ai muốn làm người chân chính, thanh lươngđi theo con đường giác ngộ, giải thoát ./.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2603)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2383)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3187)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2257)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2345)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2480)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2429)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2482)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2144)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2507)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2990)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2600)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2644)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2917)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2497)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2538)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3985)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2745)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2986)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3252)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2254)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2467)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2756)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2950)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2816)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2578)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2586)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3145)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2559)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2241)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2346)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2448)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2550)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2640)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2678)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3212)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2505)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2101)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2550)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2017)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2769)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2855)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2884)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2668)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2457)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2745)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2320)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3237)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2506)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2445)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant