Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế Giới Bên Kia

26 Tháng Hai 201916:13(Xem: 5710)
Thế Giới Bên Kia

Thế Giới Bên Kia

Thích Chân Tôn

image001

Một người bạn thân của Einstein là Robert S. Marcus, lúc đó đang giữ chức Giám đốc tổ chức Nghị hội Người Do Thái Thế giới. Sau khi con trai của Marcus chết vì bệnh polio (bệnh bại liệt trẻ em), Einstein viết một lá thư đề ngày 12 tháng 2 năm 1950 để an ủi bạn. Thư Einstein viết, dịch như sau:

 “Bạn Marcus thân:

Con ngườimột phần nhỏ của một tổng thể, mà chúng ta gọi là “Vũ Trụ,” phần này bị hạn chế trong thời giankhông gian. Cá nhân anh ta đã có kinh nghiệm về những suy nghĩ, những cảm thọ của anh như một sự cách biệt với những phần còn lại – đó là một ảo tưởng quang học trong tiềm thức của anh ta. Nỗ lực tự giải thoát khỏi ảo tưởng này là mục đích của tôn giáo chân chính…” (A human being is a part of the whole, called by us "Universe", a part limited in time and space. He experiences himself, his thoughts and feelings as something separated from the rest — a kind of optical delusion of his consciousness. The striving to free oneself from this delusion is the one issue of true religion) Đừng sống trong ảo giác đó mà hảy vượt qua để đạt đến một sự an lạc của tâm hồn.

Sau khi đọc xong lá thư này chúng ta muốn tìm hiểu khoa học, vủ trụ học nói gì về một thế giới khác ngoài cái thế giới ảo tưởng này. Nghĩa là, theo Einstein, những ai thấy họ cách biệt với phần còn lại của thế giới, đó chính là “ảo tưởng quang học của tiềm thức”… chính tiềm thức tạo ra ảo tưởng này. Để thoát ra khỏi những ảo tưởng này , đó là mục đích chính của tôn giáo chân thực. Trong kinh điễn Phật giáo, ngoài thế giới vô thường này mà ảo tưởng của chúng ta cho là có thật, còn có những cõi khác trong vủ trụ, nhưng đối với con mắt phàm, chúng ta chỉ thấy cõi NgườiSúc sanh, riêng thế giới Phật Trời, A tu la, Ngạ quỹ và Địa ngục và các cõi Thánh là chúng ta không thấy nhưng cũng có thể cảm nhận được. 

Như đã biết, không gian chúng ta đang sống là không gian ba chiều. Nhưng để giải thích các vấn đề trên, các nhà khoa học cho rằng không gian có thể có nhiều hơn ba chiều (bốn chiều, năm chiều..v..v.). Những người có thiền định cao, hoặc các nhà ngoại cảm, hay một số người có liên quan đến một năng lực đặc biệt nào đó, giúp họ đi vào thế giới không gian bốn chiều, hoặc những chiều không gian bí ẩn khác, do vậy  họ đã nhìn thấy những hình ảnh mà người khác không nhìn thấy được. Ngay trong kinh chỉ có Đức Thế Tôn mới thấy các cõi khác mà các vị thánh tăng không thấy được. 

 

Nhiều truyền thuyết cho rằng, chiều không gian thứ 4 hoặc các chiều không gian khác là nơi các linh hồn cư ngụ, bởi họ không còn chịu tác động bởi bất cứ một quy luật vật lý nào.Chúng ta biết rằng nhà khoa học Albert Einstein có những quan điểm rất gần với Phật   giáo.Trong thuyết tương đối của mình, Einstein đã đồng nhất thời gian với chiều không gian thứ 4, nhưng điều này cũng gây nhiều tranh cãi, bởi không gianthời gian là 2 thứ không thể tách rời. Từ lâu, thời giankhông gian luôn được xem như một miền liên tục thống nhất, bất cứ thay đổi nào ở phía thời gian sẽ tác động lên không gian, và ngược lại. Tuy nhiên, Einstein đã bác bỏ điều này thông qua việc chỉ ra một yếu tố có khả năng bẻ cong mối tương quan giữa không gianthời gian – đó chính là trọng lực.

 

Nhiều nhà nghiên cứu đã sử dụng ý tưởng của Einstein nhằm mục đích du hành xuyên thời gian. Chúng ta có thể di chuyển tới bất cứ đâu, với bất cứ phương hướng nào trong thế giới ba chiều, nhưng chúng ta lại chỉ có thể di chuyển xuôi dòng theo chiều thời gian. Dù việc đi về quá khứ đã được chứng minh là gần-như-bất-khả-thi, nhiều nhà khoa học vẫn nuôi hi vọng tìm ra các lỗ sâu giúp kết nối giữa các vùng khác nhau trong miền không gian-thời gian.

 

Sở dĩ bạn có thể cảm nhận được điều này là bởi bạn đang sống trong một thế giới với 3 chiều không gian – dài, rộng và cao. Với những ai chỉ sống trong thế giới 2 chiều, việc cảm nhận không gian 3 chiều là bất khả thi. Và chính điều đó, theo nhiều chuyên gia, là nguyên nhân khiến chúng ta không thể thấy được chiều không gian thứ 4, hoặc bất cứ chiều không gian nào ở trên nó. Khoa học đã chỉ ra rằng, có ít nhất 11 chiều không gian, nhưng đại đa số chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy được. Chúng ta sống trong không gian 3 chiều, và bộ não của chúng ta sẽ không có cách nào để vượt qua giới hạn đó.

Theo các nhà khoa học, bộ não của con người bình thường không thể tưởng tượng được không gian bốn chiều. Điều này có thể được giải thích như sau: Chúng ta hãy giả thiết là có các sinh vật sống ở không gian hai chiều (sống trên một mặt phẳng). Ở trên mặt phẳng đó, họ không hề biết gì về sự hiện hữu của không gian ba chiều. Vì vậy, mọi chuyển động của họ sẽ bị giới hạn trên mặt phẳng ấy và không thể tiến vào chiều không gian thứ ba như chúng ta. Giả sử có một quả cầu lọt vào thế giới đó, các sinh vật ở không gian hai chiều mới đầu sẽ nhìn thấy một điểm sáng, rồi đến các hình tròn to dần lên, đến mức cực đại, rồi các hình tròn nhỏ dần, thu lại thành một điểm, rồi biến mất. Kết quả là họ chỉ nhìn thấy những đường tròn mà không hiểu toàn bộ câu chuyện về quả cầu như thế nào cả.

Nhưng,  những điều thần bí đôi khi cũng đến với các sinh vật ở không gian hai chiều. Ví dụ, thời gian cần thiết để họ vượt qua khoảng cách từ A đến B trên mặt phẳng (không gian hai chiều) khoảng chục năm. Nhưng vì một biến cố nào đó, mặt phẳng kia bị cong lại trong không gian ba chiều, khiến điểm A và điểm B gần nhau hơn, thậm chí trùng lên nhau. Khi đó điều kỳ diệu đã đến với họ: Thời gian hàng chục năm để đi từ A đến B đạt được chỉ trong giây lát.

Trở lại vấn đề trên, các nhà khoa học giải thích: Không gian ba chiều nằm trong cái nôi của không gian bốn chiều (như không gian hai chiều nằm trong không gian ba chiều). Những ai có khả năng xâm nhập vào chiều không gian thứ tư, thì đối với họ khoảng cách hàng vạn cây số, thậm chí hàng vạn năm ánh sáng không còn ý nghĩa gì. Họ vượt qua trong phút chốc bằng cách đi qua “ khe hở” của chiều thứ tư này. "Khe hở" đó là biên giới ngăn cách hai thế giới: Thế giới của không gian ba chiều và thế giới của không gian bốn chiều. Đó chính là cơ hội để những sinh vật cấp thấp xâm nhập vào chiều thứ tư hoặc các chiều cao hơn, như những người trên trái đất đã gặp người hành tinh khác hoặc liên lạc được với những kẻ trong các cõi siêu hình khác v..v.

Để chứng minh sự tồn tại của chiều không gian thứ tư, các nhà khoa học Mỹ dự định chế tạo một máy đo siêu nhỏ, nhằm chỉ ra các hiệu ứng khác lạ, dẫn tới kết luận về sự hiện hữu của các chiều không gian khác. Nguyên lý của thí nghiệm này như sau: Theo thuyết string (Thuyết hình sợi), ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nano mét (nm); 1nm = 10-7cm), không gian sẽ bị cuộn lại trong các chiều khác (chiều thứ tư, thứ năm...). Điều này sẽ làm thay đổi lực hấp dẫn giữa các vật thể trong không gian đó. Vì thế, nếu xây dựng được một thí nghiệm để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, thì người ta có thể kết luận rằng có chiều không gian thứ tư.

Các nhà khoa học dự định sẽ đo lực hấp dẫn giữa hai lá kim loại siêu mỏng, đặt cách nhau một khoảng cỡ nano mét. Để đo được chính xác lực hấp dẫn này, người ta cần loại trừ một đại lượng gọi là hiệu ứng Casimir.

Theo cơ học lượng tử, hiệu ứng này được sinh ra bởi các photon ảo, thường bất ngờ xuất hiện trong chân không rồi lại tự động biến mất. Bình thường, trong không gian tồn tại các photon với các bước sóng khác nhau và rất đa dạng. Tuy nhiên, giữa hai tấm kim loại cực hẹp thì điều đó không thể có. Ở đây chỉ có các photon có bước sóng nhỏ hơn hoặc bằng khoảng cách giữa 2 lá kim loại. Hệ quả là giữa hai tấm kim loại sẽ có ít photon hơn bên ngoài. Sự chênh lệch về số photon trong và ngoài hai lá kim loại sẽ tạo ra một áp suất nhỏ, ép chúng lại với nhau. Lực đó được gọi là hiệu ứng Casimir.

Để loại trừ hiệu ứng trên, các nhà khoa học sẽ phải làm thí nghiệm với các lá kim loại giống hệt nhau, nhưng với các đồng vị khác nhau. Ở giữa chúng hiệu ứng Casimir sẽ giống nhau, nhưng lực hấp dẫn lại khác nhau (lá kim loại có đồng vị nặng hơn sẽ tạo ra lực hấp dẫn lớn hơn). So sánh hai lực hấp dẫn này người ta loại bỏ được hiệu ứng Casimir ra khỏi phép đo.

Các nhà khoa học hi vọng trong tương lai gần, các thí nghiệm này sẽ được thực hiện. Nếu thí nghiệm thành công, thì đây là một sự kiện chấn động vì nó sẽ khẳng định sự tồn tại của chiều không gian thứ tư, điều mà theo Stephen Hawking là không thể tưởng tượng được với bộ não con người bình thường.

Nhà vật lý người Anh Stephen Hawking mới phát triển ra một mô hình vũ trụ từ những công thức toán học tỉ mỉ. Những phát kiến mới này của Hawking dường như làm đảo lộn quan điểm khoa học truyền thống và được trình bày bằng thuyết M - M đồng nghĩa với magical (thần diệu), mystical (thần bí), mother (mẹ, gốc) - Thuyết này được coi là tổng hợp của thuyết lượng tử và thuyết tương đối. Trong khi thuyết tương đối giải thích thế giới ở dạng vĩ mô, có liên hệ với lực hấp dẫn, thì trong mô hình của thuyết lượng tử (miêu tả thế giới vĩ mô), không có tương tác này. Vì thế, thuyết M của Hawking được gọi là "thuyết lượng tử hấp dẫn". Theo Hawking thuyết này cung cấp và lý giải chính xác về bản chất của vũ trụ.

Khi phát triển thuyết M, Hawking tin rằng đã đạt được những thành tựu có tính bước ngoặt, dựa trên nền tảng của một lý thuyết rất nổi tiếng trong những năm gần đây: Thuyết String. Thuyết này cho rằng, những thành tố nhỏ nhất tạo nên vũ trụ là những dạng thức hình sợi (string), chứ không phải dạng hạt. Nhưng ở xung quanh các sợi này, theo Hawking có hiện hữu một trường hấp dẫn và người ta có thể xác định được độ lớn của trường hấp dẫn ấy (thí nghiệm mà các nhà khoa học Mỹ dự định tiến hành như đã trình bày ở trên)

Dựa trên "thuyết lượng tử hấp dẫn" của mình, Hawking đã tính ra vũ trụ của chúng ta được hình thành từ 11 chiều. Nhưng chỉ có ba chiều không gian và một chiều thời gian đã mở, còn bảy chiều kia bị cuộn lại từ sau vụ nổ lớn.

Nhận xét về thuyết mới của Hawking, tạp chí khoa học P. M của Đức đã viết:" Khi bạn đọc những dòng này, thì cùng lúc, hàng trăm con người trong bạn đang đọc nó - những kẻ đồng hành với bạn - tất cả đều đang nhún vai như bạn, đều lắc đầu, nghi hoặc..."

Lý thuyết trên của Hawking đang gây ra nhiều tranh cãi lớn, vì nhà vật lý này cho rằng, có thể giải thích được hiện tượng "linh cảm" một cách khoa học bằng thuyết M: Trong mô hình vũ trụ này, cùng lúc tồn tại vô số những con người khác nhau trong một con người. Và cùng lúc, tất cả thông tin về vũ trụ ở mọi thời đại đều hiện hữu. Vì thế, hiện tượng "linh cảm" có thể giải thích bằng việc một con người nào đó trong bạn đã trải nghiệm điều mà bạn sẽ trải qua, và mách bảo cho bạn biết trước điều đó.

TS Carr, một giáo sư toán học và thiên văn học tại trường Đại học Queen Mary ở London, đã nói rằng ý thức của chúng ta có khả năng tương tác với chiều không gian khác. Ngoài ra, vũ trụ đa chiều mà ông hình dung có một cấu trúc phân tầng. Chúng ta đang ở chiều không gian thấp nhất.

“Mô hình này giải quyết các vấn đề triết học nổi tiếng về mối liên hệ giữa vật chấttinh thần, làm sáng tỏ bản chất của thời gian, đồng thời cung cấp một cái khung bản thể luận để diễn giải các hiện tượng như hồn ma, trải nghiệm rời thể xác, trải nghiệm cận tử, và những giấc mơ”, ông đã viết trong một bản tóm tắt hội nghị.

TS Carr lý luận rằng các giác quan vật lý chỉ cho chúng ta thấy một vũ trụ 3 chiều, tuy nhiên trên thực tếít nhất 4 chiều. Những gì tồn tại trong các chiều không gian khác là những thực thể chúng ta không thể tiếp cận được bằng các giác quan vật lý. Ông nói rằng những thực thể như vậy vẫn phải tồn tại trong một không gian nào đó.

“Các thực thể phi vật lý duy nhất trong vũ trụchúng ta có thể trải nghiệm là các thực thể trong tinh thần, và … sự tồn tại của các hiện tượng siêu thường cho thấy các thực thể tinh thần phải tồn tại trong một loại hình không gian nào đó”, GS Carr đã viết.

Chiều không gian chúng ta tiến nhập vào trong các giấc mơ trùng lặp với không gian nơi ký ức tồn tại. TS Carr nói rằng khả năng thần giao cách cảm báo hiệu sự tồn tại của một không gian tinh thần chung và khả năng tiên tri cũng có một không gian vật lý riêng của nó. “Các đối tượng tri giác phi vật lý mang các thuộc tính của yếu tố bên ngoài”, ông đã viết trong cuốn sách “Vật chất, tinh thần, và các chiều không gian cao hơn”.

Ông xây dựng lý thuyết của mình dựa trên nền tảng các lý thuyết trước đó, bao gồm lý thuyết Kaluza–Klein, vốn hợp nhất hai lực căn bản là lực hấp dẫn và lực điện từ. Lý thuyết Kaluza–Klein cũng hình dung ra một không gian 5 chiều.

Trong “lý thuyết M”, có đến 11 chiều. Trong lý thuyết siêu dây, có đến 10 chiều. TS Carr hiểu điều này như một không gian “ngoại vi” 4 chiều—nghĩa là đây là 4 chiều không gian trong thuyết tương đối của Einstein—và một không gian “nội vi” có từ 6 đến 7 chiều—nghĩa là những chiều không gian này có liên hệ với khả năng ngoại cảm và hiện tượng “vô hình” khác.

 Vật chất tối và năng lượng tối 

Lâu nay các nhà khoa học vẫn cho rằng thành phần chính của vũ trụnăng lượng tối (chiếm hơn 68%) và vật chất tối (27%), còn các hành tinh và vì sao chỉ chiếm khoảng 5%.

Vật chất tối bắt đầu có tên trong tự điển thiên văn thế giới vào năm 1933, khi nhà thiên văn Thụy Sĩ Fritz Zwicky có một khám phá chấn động thế giới: vũ trụ có nhiều vật chất hơn những cái chúng ta đã thấy trong thực tế. Đến những năm 1970, khái niệm vật chất tối càng trở nên quan trọng hơn khi nó được nhà thiên văn Mỹ Vera Rubin dùng để giải thích sự dịch chuyển và tốc độ của các vì sao. Sau đó giới khoa học đã cống hiến nhiều nguồn lực đáng kể để xác định vật chât tối: trên không gian, mặt đất và tại CERN (Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu) nhưng tất cả đều không thành công. Năm 1998, thế giới lại chứng kiến khám phá chấn động thứ hai: phát hiện sự gia tốc của vũ trụ đang giãn nở từ một nhóm các nhà vật lý thiên thể Úc và Mỹ. Khám phá được gọi là năng lượng tối này đã được trao giải Nobel vật lý 2011.

Bất chấp những nguồn lực khổng lồ đã được thực hiện nêu trên, chưa từng có lý thuyết hay quan sát nào có thể định nghĩa được loại năng lượng đen được cho là mạnh hơn cả lực hấp dẫn của Newton. Từ khi được phát hiện, vật chất đen và năng lượng tối là hai bí ẩn đã thách thức giới thiên văn trong gần một thế kỷ qua.

Trong gần một thế kỷ qua, các nhà nghiên cứu đã giả định rằng vũ trụ chứa nhiều vật chất hơn những gì đã được quan sát trực tiếp. Loại vật chất chưa thể quan sát, yếu tố khiến các vì sao chuyển động đã được gọi tên là vật chất tối chiếm 27% vũ trụ. Ngoài ra trong vũ trụ còn một thành phần thúc đẩy quá trình tăng tốc giãn nở vũ trụ, mạnh mẽ hơn cả lực hấp dẫn, được gọi là năng lượng tối chiếm đến 68% vũ trụ.

Hằng số này là yếu tố chi phối mô hình truyền thống được xây dựng trên phương trình của Einstein. Maeder cho rằng không gian rỗng và các đặc điểm của nó sẽ không thay đổi theo quy mô, nghĩa là dù giãn nở hay thu hẹp thì không gian rỗng và các đặc điểm của nó vẫn giữ nguyên.

image003 

Trong mô hình thứ hai dựa trên luật hấp dẫn của Newton, áp dụng cho các cụm thiên hà, mô hình này cho thấy vô số cụm thiên hà phù hợp với vật chất thấy được, nghĩa là chúng ta có thể giải thích được tốc độ cao của các thiên hà trong các cụm thiên hà mà không cần đến vật chất tối. Luật hấp dẫn Newton đã điều chỉnh cũng dự đoán được các vì sao sẽ đạt được tốc độ cao ở các khu vực rìa ngoài thiên hà mà không cần miêu tả vật chất tối. Trong thử nghiệm thứ ba tập trung vào độ phân tán trong tốc độ của các vì sao dao động quanh mặt phẳng Milky Way (thường gia tăng theo độ tuổi của các ngôi sao liên quan), giả thuyết không gian rỗng bất biến (không thay đổi) truyền thống đã giải thích rất tốt sự phân tán tốc độ này. Kết quả độc đáo này là điều mà trước giờ khoa học vẫn chưa thống nhất

Khám phá mới của Maeder sẽ mở đường cho một khái niệm mới trong thiên văn, một khái niệm gây nhiều nghi vấn và tranh cãi."Mô hình này cuối cùng đã giải quyết được hai trong những bí ẩn lớn nhất của thiên văn. Việc công bố nó vẫn đúng với tinh thần khoa học: không điều gì có thể mãi mãihiển nhiên, không chỉ trong các mặt kinh nghiệm, quan sát hay lý luận của con người", giáo sư André Maeder kết luận.

Qua các chứng minh của khoa học, vủ trụ học, thiên văn học, chúng ta có thể kết luận rằng theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, có thế giới vô hình bên kia, những cõi mà kinh điễn đề cập đến đều có thật, những cõi Phật, Bồ Tát, Trời, Ngạ quỹ, Địa ngục hay các cõi Thánh. Những cõi này là các thế giới có những chiều không gian khác nhau từ không gian 4 chiều cho đến 11 chiều và 68% năng lượng tối của vủ trụ, do vậy với mắt phàm phu của chúng ta chỉ thấy 2 cõi, đó là cõi Người và cõi súc sanh mà thôi, trùng hợp với không gian 3 chiều trên 11 chiều và 2 cõi trong 10 cõi của Phật giáo.

Nguồn tham khảo: Wikipedia/ Lập thu 2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1489)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1937)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1764)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1889)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2066)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1436)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1678)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1586)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1652)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2222)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1917)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1857)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1691)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2005)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1623)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1770)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1978)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1514)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1762)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1732)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1976)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1747)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1604)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1575)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1590)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1543)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1507)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2030)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1784)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1593)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2137)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1783)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1860)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2056)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2324)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2352)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1887)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1694)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1722)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2055)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2584)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1480)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1445)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1604)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1433)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant