Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trong Một Nắm Tay

09 Tháng Ba 201907:51(Xem: 6668)
Trong Một Nắm Tay
Trong Một Nắm Tay 

Nguyễn Duy Nhiên


Truyện Ngắn Người Cửa Phật


Trong con đường học Phật, đôi khi chúng ta có thể cảm thấy như mình bị lạc lỏng trong một khu rừng mênh mông, bị tràn ngập với vô số những giáo lý và lời dạy khác nhau. Ta không biết mình cần nên học và hành những gì, và làm sao ta có thể học hỏi được hết những gì Phật dạy! Nhưng thật ra vấn đề học Phật không vất vả và xa vời như ta nghĩ.

Đức Phật có lần nhắc nhở các thầy rằng, những điều chúng ta cần hiểu và hành, thật ra chúng rất đơn giản và không nhiều, chỉ chừng như những lá cây trong một nắm tay nhỏ thôi. Chúng không mênh môngtrừu tượng như ta nghĩ.

Ngài Tỳ khưu Buddhadasa, một học giả Phật học nổi tiếng của thế kỷ 20, nhắc nhở chúng ta rằng, thật ra thì “Nguyên lý gốc rễ của sự thực hành để chấm dứt khổ đau gom lại chỉ chừng đầy một nắm tay thôi. Và chúng ta cũng nên mừng rằng một nắm tay là không có bao nhiêu. Nó không hề vượt qua ngoài khả năng học hỏi và hành trì của ta.”

Xin được chia sẻ với bạn, những nhận xét sâu sắc của Ngài Buddhadasa muốn nhắc nhở chúng ta rằng, tất cả những gì Phật dạy thật ra chỉ là một con đường buông xả mà thôi.

 

Đặt đúng vấn đề

“Thế nào thì được gọi là một “nguyên lý cốt tuỷ của đạo Phật”? Tôi nghĩ, trước nhất nguyên lý ấy phải chuyển hóa được khổ đau (dukkha), và thứ hai, nó phải có một luận lý mà ai cũng có thể tự mình chứng nghiệm được và không cần phải tin vào kẻ khác.

Đức Phật lúc nào cũng từ chối không chịu luận bàn đến những điều mà Ngài thấy không đưa ta đến sự chấm dứt khổ đau. Cái gì đi tái sanh? Tái sanh bằng cách nào? Những câu hỏi này hoàn toàn không hề giúp ta chuyển hóa được khổ đau của mình. Và vì thế, chúng không phải và cũng không có một liên hệ gì đến lời Phật dạy. Chúng cũng không nằm trong phạm trù của đạo Phật. Và người nêu lên câu hỏi ấy cũng không có một sự chọn lựa nào khác hơn là mù quáng tin vào câu trả lời, vì thật ra người trả lời cũng không thể nào đưa ra một chứng cớ nào rõ rệt hết, họ chỉ nói theo sự suy đoáncảm xúc của mình mà thôi. Và vì người nghe không thể tự mình chứng nghiệm được, nên họ đành phải nhắm mắt tin vào lời nói của kẻ khác mà thôi. Và dần dà, vấn đề mỗi lúc một đi xa đạo Pháp, cho đến khi nó hoàn toàn trở thành một vấn đề khác biệt, không còn dính dáng gì đến với chuyện chuyển hóa khổ đau nữa hết.

Và thay vì nêu lên những vấn đề như vậy, ta cũng có thể đặt lại câu hỏi là “Có khổ đau không?” và “Làm cách nào để chuyển hóa được khổ đau?” Chắc chắn đức Phật sẽ sẵn sàng trả lời những câu hỏi ấy cho ta. Người nghe sẽ có thể thấy rõ được chân lý trong mỗi chữ của câu trả lời mà không cần phải tin theo mù quáng. Và cùng với sự thực tập, ta sẽ mỗi lúc lại càng thấy được sự thật ấy rõ rệt hơn, cho đến lúc tự chính mình thấu hiểu hoàn toàn.

 

Chỉ cần một nắm lá nhỏ

Thật ra, nguyên lý cốt tuỷ của đạo Phật cũng không có nhiều. Đức Phật nói rằng giáo pháp của ngài chỉ có chừng đầy “một nắm tay” mà thôi. Một đoạn trong Tương Ưng Bộ kinh, Samyutta-nikaya, đã làm sáng tỏ điều này. Có một lần đang đi trong rừng, đức Phật cúi xuống và nắm một vóc lá trong tay. Ngài hỏi các đệ tử cùng đi với Ngài rằng, lá trong tay của Ngài nhiều hay lá trong rừng nhiều hơn. Lẽ dĩ nhiên các thầy trả lời rằng lá trong rừng nhiều gấp vô số lần số lá trong tay của Phật. Sự khác biệt không thể nào so sánh được. Ta hãy thử tưởng tượng hình ảnh ấy đi. Và đức Phật nói tiếp, cũng vậy, những gì Ngài biết và chứng đắc được nhiều cũng như lá trong rừng. Và những gì chúng ta cần biết, những gì chúng ta cần học hỏithực hành, thì cũng chỉ cần như số lá nằm trong bàn tay của Ngài mà thôi.

Từ bài kinh đó ta có thể thấy được rằng, so với tất cả vô số sự việc trên vũ trụ này, nguyên lý gốc rễ của sự thực hành để chấm dứt khổ đau gom lại chỉ chừng đầy một nắm tay thôi. Và chúng ta cũng nên mừng rằng một nắm tay là không có bao nhiêu. Nó không hề vượt qua ngoài khả năng học hỏi và hành trì của ta. Đây là điểm quan trọng đầu tiên mà chúng ta cần hiểu thấu, nếu ta muốn đặt một nền móng vững chắc và hiểu đúng giáo Pháp của đức Phật.

 

Không vướng mắctoàn thể lời Phật dạy

Lời dạy của đức Phật nói đến sự thực tập về tánh-không, sunnata, là lời dạy tâm yếu của đạo Phật. Ta cần phải chú ý sâu sắc đến lời dạy này. Không có bất cứ một điều gì mà ta có thể nắm bắt và cho đó là “tôi” hay là “của tôi.” “Sabbe dhamma nalam abhinivesaya”

Đức Phật cũng từng nói rằng đó chính là toàn thể lời dạy của tất cả các chư Phật từ ngàn xưa đến nay. Ngài nói rằng, chỉ cần nghe một câu ấy thôi “Sabbe dhamma nalam abhinivesaya” là ta đã nghe trọn vẹn hết tất cả Phật pháp, thực hành bấy nhiêu thôi là thực hành hết tất cả, và thành đạt được bấy nhiêu thôi là thành đạt hết tất cả.

Vì vậy ta đừng bao giờ sợ rằng biển Pháp mênh mông quá và ta không thể nào hiểu được hết. Khi đức Phật so sánh những gì Ngài biết nhiều như lá trong rừng, với lại những gì Ngài dạy cho các đệ tử mình thực hành, nhiều như lá trong một nắm tay, số lá trong nắm tay ấy chính là lời dạy này: không nắm bắt hay dính mắc vào bất cứ một điều gì và cho đó là tôi hay là của tôi.

“Chỉ nghe bấy nhiêu thôi là ta đã nghe hết tất cả,” vì tất cả những giáo Pháp khác đều có mặt trong đó. Tất cả những gì đức Phật dạy không có một điều gì lại không liên quan đến khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau. Nắm bắt và dính mắc là nguyên nhân của khổ đau, dukkha. Khi nào có sự nắm bắt và dính mắc là khi ấy có khổ đau. Và khi nào không còn sự nắm bắt và dính mắc nữa thì khi ấy sẽ không có khổ đau. Sự thực tập ở đây là làm sao để ta chuyển hóa sự nắm bắt và dính mắc của mình trở thành một tánh-không, để nó sẽ không bao giờ còn khởi lên nữa. Bấy nhiêu đó thôi là đầy đủ rồi. Không còn gì khác hơn để làm nữa.

 

Bấy nhiêu thôi là đã thực hành tất cả

“Chỉ thực hành bấy nhiêu thôi là ta đã thực hành hết tất cả.” Bạn nghĩ là ta có còn cần phải thực hành thêm những gì nữa chăng? Nếu trong giây phút này, một người nào đó có một tâm tự tại, trong sáng không còn nắm bắt hay bị dính mắc vào bất cứ một điều gì hết, người ấy có được những gì? Mời bạn hãy suy nghĩ cho thật kỹ. Nếu bạn nhìn cho sâu sắc bạn sẽ thấy rằng, thật ra người ấy đã thành đạt được hết tất cả những pháp môn trong truyền thống như là Tam quy (tisarana), bố thí (dana), trì giới (sila), thiền định (samadhi), trí tuệ (panna), và ngay cả quả trái của chúng là Niết bàn (nibbana).

Vì khi ta buông bỏ hết và không còn nắm bắt nữa, thì chắc chắn là ta đã trở vềquy y nơi tam bảo (tisarana). Ta quay trở về nương tựa vào Phật, Pháp và Tăng, tâm ta không còn mang nặng những phiền muộn nữa và trở thành một với tam bảo. Trở về nương tựa không phải bằng những lời nói suông chúng ta vẫn thường tụng đọc mỗi ngày, mà là trở về với Phật, Pháp, Tăng đang có mặt trong tâm ta. Những khi tâm ta không còn bị dính mắc, không còn thấy là “tôi” và “của tôi” nữa, cho dầu chỉ trong chừng một phút chốc thôi, là tâm ta cũng đã hiểu được tánh-không. Và đó cũng chính là trái tim của tam bảo.

Sự thực tập kế tiếpbố thí (dana). Bố thí có nghĩa là buông xả, không còn nắm bắt vào một vật gì và cho đó là “tôi” hay “của tôi”. Khi tâm ta không còn có một cái chấp ngã, là ta đang thực hành một hạnh bố thí cao tột nhất, vì khi ta buông bỏ luôn cả cái ta của mình rồi, thì đâu còn lại gì để ban cho nữa? Và khi đó là ta đã thực hành hạnh bố thí một cách toàn vẹn nhất.

Và kế đến là trì giới (sila). Một người khi đã không còn nắm bắt và dính mắc vào gì nữa hết thì mọi hành động và lời nói của họ bao giờ cũng hoàn toàn thật sự chân chánh. Còn những sự trì giới khác thật ra chỉ là một vấn đề tạm thời, lúc có lúc không mà thôi. Chúng ta có thể lập những lời nguyện và hứa rằng sẽ không làm việc này hay nói lời nọ, nhưng rồi ta cũng không thể giữ được. Khi tâm ta được rỗng không, cho dù chỉ trong phút chốc, hay một ngày hoặc một đêm, là trong lúc ấy ta đang trì giới trọn vẹn.

Còn về thiền định (samadhi), một tánh-không là một tâm định sâu sắc và vững vàng nhất. Một tâm định mà còn dụng sức và nỗ lực vẫn chưa phải là chánh định. Chỉ có một tâm thức không còn nắm bắt và dính mắc vào cái “tôi” và “của tôi” nữa, mới thật sự có được một sự quân bìnhkiên cố của chánh định. Một người đạt được tánh-không là một người lúc nào cũng sống trong chánh định.
Phương pháp thực hành kế đến là trí tuệ, tức bát nhã (panna). Nơi đây chúng ta có thể thấy rõ rằng, hiểu được tánh-không, sunnata, chính là tinh yếu của tuệ giác. Khi tâm ta rỗng lặng, nó sẽ trở nên rất tinh tế, trong sángminh mẫn. Khi tâm ta không còn những ý niệm về “tôi” và “của tôi”, thì đó cũng là bát nhã. Vì vậy nên người ta thường nói sunnata và panna là một, tánh-không và bát nhã là một. Khi tâm ta không còn những cái biết sai lầm nữa, nó sẽ thấy lại được cái bản tâm trong sáng ban đầu của chính nó.

cuối cùng ta có thể gặt hái được quả trái của chúng là Niết bàn, nibbana. Nơi đây sự tiến hóa dần dà của tánh-không đã đi đến mức cao tột nhất, và nó còn được gọi là tánh-không-bát-nhã (parama-sunnata).

 

Tất cả chỉ là một hành trình buông xả.

Bây giờ chắc các bạn cũng thấy được rất rõ rằng, hành trình từ quy y tam bảo cho đến bố thí, trì giới, thiền định, và tuệ giác, không có gì khác hơn là tánh-không, cũng có nghĩa là không dính mắc vào một cái tôi. Và quả vị của niết bàn cũng không gì khác hơn điều ấy. Mà thật ra niết bàn chính là một trình độ cao tột nhất của sunnata, tánh-không.

vì vậyđức Phật đã dạy rằng, chỉ cần nghe bấy nhiêu thôi là ta đã nghe hết tất cả giáo Pháp của Ngài. Thực hành bấy nhiêu thôi là ta đã thực hành hết tất cả. Thành đạt bấy nhiêu thôi là ta đã thành đạt hết tất cả: không nắm bắt hay dính mắc vào bất cứ một điều gì và cho đó là tôi hay là của tôi. Nothing whatsoever should be clung to as “I” or “mine.” Sabbe dhamma nalam abhinivesaya. Và chúng ta hãy cố gắng tinh tấn hành trì, để rồi một ngày nào đó ta có thể thật sự hiểu được tinh yếu của sunnata, chữ tánh-không ấy thật sự có nghĩa là gì.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9626)
Nhân quả là nói tắt của tiến trình nhân-duyên-quả. Nhân là tác nhân chính, duyên là những nhân phụ, quả là kết quả.
(Xem: 9162)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả.
(Xem: 9958)
Xuất gia vốn đã khó, làm tròn bổn phận của người xuất gia lại càng khó hơn. Nhiều người nghĩ rằng đã đi tu, là Tỷ kheothanh tịnh, giải thoáthoàn thiện.
(Xem: 9948)
Nếu ý thức được tầm quan trọng của cuộc sống của mình, thì cũng phải hiểu rằng cuộc sống của kẻ khác cũng quan trọng như thế.
(Xem: 9182)
Pháp tu cho Tam quả lại đơn giản đến không ngờ, chỉ cần tu tập trọn vẹn ba pháp “các căn tịch tĩnh, ăn uống biết tiết độ, chẳng bỏ kinh hành” là có thể thành tựu ngay trong hiện đời.
(Xem: 13075)
Trong khi hiến tặng, ta tiếp nhận được biết bao nhiêu tặng phẩm của đất trời. Một giọt sương đầu ngọn cỏ, một bông hoa nở bên vệ đường, một ngôi sao lấp lánh buổi sáng khi ta mở
(Xem: 10003)
Sự khác nhau trong đường lối giữa Phật giáo và Vedanta trong trường hợp này thể hiệncon đường tu đạo, và cái đích của tu đạo.
(Xem: 10294)
Khi nhóm năm ẩn sĩ[i] rời bỏ Đức Thế Tôn, Ngài thấy đấy là điều hay vì từ bây giờ Ngài có thể tiếp tục thực tập không còn cản trở nào.
(Xem: 10747)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 8906)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10096)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 10036)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9170)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 10846)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 14878)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11624)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 10003)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12561)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10776)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10304)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10644)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10559)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10426)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9895)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9188)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9235)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11153)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9501)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 12953)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12512)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 9048)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9458)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9484)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9437)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 9014)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8836)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10195)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8490)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8175)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15372)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10631)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10634)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8775)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8853)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8448)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 11969)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10723)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
(Xem: 10464)
Ai tạo ác nghiệp thì sẽ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷsúc sinh. Nhất là tạo những nghiệp ác nặng nề thì chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục.
(Xem: 13302)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.
(Xem: 8219)
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant