Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Đời Sống

25 Tháng Ba 201918:35(Xem: 5970)
Ý Nghĩa Đời Sống

Ý NGHĨA ĐỜI SỐNG

Nguyễn Thế Đăng

 
Hướng Tâm Tu Học

Cuộc đời con người bị giới hạn giữa hai đầu sanh và chết. Cuộc đời giới hạn bởi sanh và chết ấy có ý nghĩa gì? Đó là thắc mắc lớn nhất của con người và mọi ngành nghiên cứu, kể cả các tôn giáo. Tùy theo sự giải đáp của câu hỏi ấy, bất toàn hay đầy đủ, thiên lệch hay đúng đắn… mà đời sống con người có được an vui hạnh phúc hay khủng hoảng bất hạnh, tin tưởng hay mất phương hướng, đầy ý nghĩa hay vô nghĩa.

Khi tìm hiểu về tôn giáo Tây phương, chẳng hạn như cuốn Approaches to the Study of Religion (2001) do Peter Conally chủ biên, dịch giả Chu Tiến Anh (Tôn giáo học, từ nhiều cách tiếp cận), Nxb Tri Thức, 2018, khảo sát tôn giáo chủ yếu của Tây phương từ nhiều cách tiếp cận, Thần học, Triết học, Tâm lý học, Hiện tượng luận, Xã hội học, Nhân học, Nữ quyền… chúng ta thấy tất cả những bàn luận đều xoay quanh một trục đức tin. Nhưng đức tin thì tùy theo khuynh hướng, theo văn hóa từng vùng, không thể chứng minh một cách chắc chắn. Tin, đối với Phật giáo, chỉ là một trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, trợ giúp con người đi trên đường đạo.

Trong khi đó về xã hội, chúng ta thấy sự buông thả cá nhân càng ngày càng trở thành yếu tố chủ đạo, tội ác càng ngày càng nhiều, càng mất nhân tính, sự lạc lõng trong tâm hồn cá nhân càng lớn rộng. Hình như trong các xã hội Tây và Đông, sự khủng hoảng của một bảng giá trị sống làm người đang làm con người không biết sống làm sao để càng ngày càng nâng cấp mình lên thành con người hoàn thiệntoàn diện. Đạo Phật có những giải đáp gì để đem lại cho con người sự an tâmtiến bộ hướng thượng?

Đời sống xã hội

Khi nhìn vào hiện trạng của cuộc đời mình, chúng ta không thể giải thích thế nào. Tại sao trí óc tôi chậm lụt hơn người khác? Tại sao tôi ít gặp may hơn người khác? Tại sao và tại sao không có sự bình đẳng? Nếu như các tôn giáo nhất thần cho rằng Thượng đế đã sanh ra con người và thưởng phạt theo hành động tốt xấu của nó , thì làm sao giải thích được sự bất bình đẳng giữa những con người, làm sao giải thích được sự xấu ác có trong thế gian? Tôi có trách nhiệm gì khi những ưu khuyết điểm của tôi đều do đấng sáng tạo làm ra?

Trong cuốn Ngẫu nhiênTất định, Jacques Monod, giải Nobel Sinh học và Y khoa năm 1965, ông đã chẳng giải quyết được vấn đề này. Bởi vì cho là ngẫu nhiên, may rủi thì rơi vào chủ nghĩa hư vô (đoạn kiến) mà cho là tất định, mọi sự đều đã được định đoạt sẵn bèn rơi vào chủ nghĩa thường hằng (thường kiến).

Cách giải quyết của đạo Phật có thể nói là Trung đạo. Tất cả mọi chúng sanhcuộc đời với những biến cố khác biệt, với những bẩm sinh khác biệt là do những hành động (nghiệp) trong quá khứ của mỗi người và mọi việc xảy ra theo đúng luật nhân quả. Nếu muốn tương lai có quả tốt hơn thì hãy tạo ra nhân tốt hơn. Khi trả lời tại sao có sự bất bình đẳng, giàu nghèo, trí ngu, thọ yểu, may mắn xui rủi… giữa chúng sanh, Đức Phật trả lời: “Tất cả chúng sanh đều mang theo nghiệp, tức những hành động tốt xấu của chính mình như một người thừa kế duy nhất. Chính vì nghiệp riêng của mỗi người khác nhau nên mới có sự khác biệt giữa chúng sanh”.  

Hành động (nghiệp nhân) trải qua các đời chín thành quả (nghiệp quả), đây là sự công bằng cho cuộc sống thế gian. Và nghiệp nhân không hẳn tất định sanh ra nghiệp quả, mà trong quá trình chín thành này con người có thể sửa đổi bằng những nghiệp mới tốt đẹp để xóa bớt những nghiệp xấu. Sự công bằng của nhân quả phải gồm cả sự sửa đổi những hành động tức là những nghiệp của mình.

Chúng ta thấy, với “nghiệp, nhân quả, và có đời trước đời sau” là đạo đức công bằng cho tất cả mọi người. Nó còn sâu rộngcông bằng, có tính ngăn ngừa phạm tội hơn cả luật pháp xã hội. Luật pháp xã hội rất cần cho thế giới này, nhưng chưa sâu rộngcông bằng cho bằng “nghiệp, nhân quả, và có đời trước đời sau” . Luật pháp cũng xử theo nhân quả: gây nhân nặng hay nhẹ, cố ý hay vô tình, thời gian lâu hay mau… để chịu hình phạt (quả) như thế nào. Nhưng luật pháp có khi không tìm ra thủ phạm, và không công bằng tuyệt đối: sát hại nhiều người cũng tử hình mà một người cũng tử hình. Với nhân quả, nghiệp báo, hai người bị tử hình như nhau, nhưng người tội nặng hơn còn trả quả dài hơn ở những đời sau. Không có nhân quả, nghiệp báo, đời sau, có người bạo gan nghĩ rằng “chết là hết, cứ làm bậy, sống mười năm cũng đủ rồi, còn hơn anh kia sống hơn mình hai mươi năm mà nghèo đói như thế”. Cái chết là hết của đời này nhưng nghiệp còn kéo dài qua những đời sau, đó mới là công bằng.

Nhân quả, nghiệp báo còn tinh vi hơn. Người kia ăn trộm nhưng không thành công. Với luật pháp, không bắt quả tang thì không có tội. Nhưng với nghiệp, anh ta đã tạo ra ý nghiệp, và anh ta phải trả quả, dầu chỉ nơi phương diện ý.

Chúng ta thấy “nhân quả, nghiệp báo, đời trước đời sau” là sự công bằngyên ổn của xã hội, yên ổn từ trong nội tâm con người. Cái “luật pháp” nội tâm này khiến con ngườitrách nhiệm thật sự với cuộc đời mình, và cũng chính nhân quả, nghiệp báo khiến chúng ta dựa vào đó mà sáng tạo ra cuộc đời mình cho tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn.

Đời sống tâm linh

Với thân tâm này, chúng ta sống đời sống giác quanđời sống ý thức; và cũng chính thân tâm này, khi được tịnh hóa, được vượt lên cao, chúng ta sống đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh là cái mà kinh Pháp hoa gọi là “thật tướng của tất cả mọi sự”, đó cũng chính là nền tảng của tất cả mọi sự. Đó là một đời sống không bị giới hạn trong các giác quaný thức, nghĩa là không bị giới hạn trong sanh và chết.

Thật tướng của tất cả mọi sự, thật tướng của đời sống là khuôn mặt thật của đời sống. Chúng ta không thấy được khuôn mặt thật của đời sốngchúng ta mải mê chạy theo các giác quan phân tán và ý thức phân biệt chia cắt. Thí dụ, cái thấy của con mắt là chia cắt giữa một chủ thể tôi thấy và các đối tượng được thấy. Một suy nghĩ của ý thức là sự phân biệt giữa tôi, người, thế giới; giữa bên trong và bên ngoài. Thành thử, cũng một khuôn mặt thật của đời sống, trong sáng, bình đẳng cho tất cả mọi người, nhưng chúng ta chia cắt khuôn mặt thật ấy ra bằng các giác quaný thức của mình, để chia thành ra một thế giới phân mảnh, không gian phân mảnh và thời gian phân mảnh. Thế giới phân mảnh thì giới hạn, xung đột nhau, và do đó có khổ đau.

Tất cả các tông phái Phật giáo đều để làm cho các giác quaný thức thanh tịnh, và khi chúng thanh tịnh chúng trở về nền tảng, nguồn cội thanh tịnh của chúng. Làm cho chúng thanh tịnh nghĩa là xóa bỏ cái nghiệp phân biệt chia cắt để phải lang thang trong thế giới sanh và chết của chúng. Khi chúng hết phân biệt chia cắt, khi chúng thanh tịnh thì chúng thấy và kinh nghiệm một thế giới thanh tịnh, vốn chưa từng bị chia cắt, một thế giới Phật: “Tùy tâm này tịnh, tức cõi Phật tịnh” (kinh Duy-ma-cật).

Có một số người nhìn đạo Phật như cái gì xa lạ, khác thường, thậm chí đáng sợ. Nhưng những tông phái cao cấp đều nói đạo PhậtBình thường tâm, như Đại Ấn (Mahamudra), Đại Toàn Thiện (Dzogchen), Thiền… Bình thường tâm là vốn như vậy, sanh tử khổ đau mới là bất bình thường. Đạo Phậtthật tướng của đời sống, nền tảng của đời sống, nên chẳng tách lìa đời sống. Đời sống xảy ra kiểu nào thì thật tướng của đời sống luôn luôn có ở đó.

Đạo PhậtCon đường Chánh Tám ngành (Tám Chánh đạo). Tám Chánh đạo bao trùm toàn bộ đời sống thân, ngữ, tâm của một con người; như vậy, bao trùm toàn bộ sinh hoạt của xã hội. Tám Chánh đạo là : Thấy đúng (Chánh kiến); Tư duy đúng (Chánh Tư duy); Lời nói đúng (Chánh ngữ); Hành động đúng (Chánh nghiệp), Mạng sống đúng (Chánh mạng); Nỗ lực đúng (Chánh Tinh tấn); Tâm niệm đúng (Chánh niệm); Tâm niệm an trụ đúng (Chánh định).

Với thân ngữ tâm sống đúng như thế, người ta sẽ tương ưngđạt được cái Đúng, tức là thật tướng, hay nền tảng, hay cội nguồn, của tất cả mọi sự, mọi hình thái sống. Cái đúng này là cấp độ thứ ba, cấp độ tâm linh. Người ta tương ưng được và sống trong cái đúng, cái đời sống chân thật vốn thanh tịnh vì không có sự phân biệt chia cắt, cái đời sống tâm linh.

Tám chánh đạo thông suốt từ nhân đạo (đạo làm người) cho đến Phật đạo (đạo giải thoát, giác ngộ). Thế nên nếu sống Tám Chánh đạo ở mức độ thấp, người ta có một đời sống xã hội tốt đẹp, có ý nghĩa. Còn ở cấp độ cao, người ta được đời sống tâm linh, bao trùm và chuyển hóa đời sống giác quanđời sống ý thức. Như thế, người ta trở thành một con người hoàn thiệntoàn diện.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo Số 317 15-3-2019
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1095)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1265)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1334)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 752)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1136)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1153)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1261)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1364)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1463)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1344)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1296)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant