Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thường Và Vô Thường

26 Tháng Ba 201918:42(Xem: 5653)
Thường Và Vô Thường

THƯỜNG VÀ VÔ THƯỜNG

Mãn Tự


Hết Củi Thì Lửa Tắt


Giáo Pháp
Đức Thế Tôn Như Lai truyền lại có hai cấp độ là Thường và Vô Thường. Tuy nhiên từ lâu những bậc tu hành hay những luận giải của các bậc Tôn Túc chỉ nói đến Vô Thường còn Thường thì không thấy nói đến.

Nói đến Vô Thường thì có bài kệ bốn câu của vị Thiền Sư người Việt chúng ta, mà hầu hết giới tu hành hiện tại đều tâm đắc đó là:

Nguyên văn:

Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch nghĩa:
Thân như ánh chớp có rồi không
Vạn vật xuân xanh thu héo tàn
Nhậm vận thịnh suy không sợ hãi
Thịnh suy như sương trên ngọn cỏ

 Với bài kệ ở trên chắc chắn vị Thiền Sư đã ngộ ra lý Vô Thường. Tu hành mà ngộ được lý Vô Thường thì thế gian không còn ràng buộc, không còn lo sợ sự Vô Thường sanh diệt đến đi, đã dứt được phiền não thế gian Tâm được nhẹ nhàng an lạc giải thoát. Đã đứng trên nhân gian, đã thấy được chân đế, được thế gian tôn trọng cúng dường.

Thật vậy, đó là cấp độ mà người tu hành mong cầu chứng ngộ, dù vậy khi đến đó mà không xả bỏ, không tiếp tục tinh tiến dũng mãnh đi lên, không được Như Lai quán đảnh, thỏa mãn với sự mong cầu và an trụ ở đó thì không thể nào thấy được, chứng được Pháp Thường Trụ, dù rằng từ Pháp Vô Thường đến chứng Pháp Thường Trụ chỉ cách nhau một đường tơ. Tuy nhiên muốn bước lên chứng Pháp Thường Trụ thì cần phát đại nguyện, phải có Tâm dũng mãnh, phải dám hi sinh,  phải có đại nhẫn, phải đầy đủ phẩm hạnh, phải nguyện độ tận chúng sinh làm cứu cánh, giống như phẩm Bồ Tát sơ Pháp Tâm trong kinh Hoa Nghiêm vậy.

Từ giác ngộ được Pháp Vô Thườngquyết Tâm tu học để chứng được Pháp Thường Trụ thì phải tu học như thế nào?  Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Thế Tôn Như Lai thuật lại tiến trình cầu Pháp Thường Trụ của Ngài. Vì ngộ ra lý Vô Thường của Vạn Pháp, không lưu luyến, từ bỏ thế gian đi vào rừng sâu núi thẳm làm một vị tiên nhân cô độc để mong tìm cầu Pháp Thường Trụ. Vì xa lánh nhân gian nên sáu căn không tiếp xúc sáu trần.  Ở trong môi trường vắng lặng như vậy Ngài dùng tất cả thời gian để thiền định trầm tư mong cầu giác ngộ Pháp thường trú. Không bằng lòng với hai câu kệ mà Ngài ngộ được là: “Chư hành Vô Thường là Pháp sinh diệt” . Với Tâm  thệ nguyện rộng lớn của Ngài là độ tận chúng sanh thì Pháp Vô Thường không đủ trí tuệ để độ được. Thiền định trầm tư như vậy qua không biết bao nhiêu thời gian, dù vậy vẫn không có một chút ánh sáng nào lóe lên. Cho đến một ngày Ngài chấp nhận xả bỏ tính mạng cho quỷ La Sát ăn để học được hai câu kệ mà từ lâu Ngài mong cầu đó là “Sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”( muốn hiểu thêm đoạn kinh này hãy tìm đọc kinh Đại Bát Niết Bàn của hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch)

Đức Thế Tôn chấp nhận hy sinh Thân mạng để cầu được Pháp Thường Trụ bất sinh bất diệt rồi dạy lại cho chúng sanh. Từ chư hành Vô Thường, là Pháp sinh diệt cho đến “Sinh diệt -  diệt rồi, tịch diệt là vui”

Như vậy, từ Pháp Vô Thường đến Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt chỉ cách nhau một bước, khi còn đứng ở Pháp Vô Thường sinh diệt thì thấy có hai là Thường và Vô Thường. Tuy nhiên,  khi Sinh Diệt đã Diệt thì không còn Thường hay Vô Thường gì hết mà là Chân như bất sanh bất diệt vậy. Pháp gì là Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt? Chính là “Chư hành Vô Thường là Pháp sinh diệt”

Tu hành để chứng Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt thì trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Thế Tôn tu “Diệt - Sinh Diệt” mà chứng. Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Ngài dạy chư vị tu sĩ vô sở đắc, vô sở trụ hay trong Kinh Bát Nhã Tâm Kinh dạy Đi qua - Đi qua. Tuy từ ngữsai biệt nhưng ý nghĩa giống nhau là cùng đi tới Cứu Cánh chứng Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt.

Tại sao có sự sai biệt từ ngữ như vậy? Diệt - sinh diệt. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn là Ngài thuật lại bổn sự hành trang tu hành của Ngài. Đức Thế Tôn không có thầy, những gì Ngài thấy được, giác ngộ được là do công phu tu hành tìm cầu trong vô lượng kiếp, vô lượng thời gian, xả bỏ Thân thể hình hài không thể tính đếm mới có được. Còn Kinh Bát Nhã Ba La Mậtphương tiện diệu dụng của Đức Như Lai chỉ dạy cho các bậc tu sĩ nhị thừa và sơ Pháp Tâm Bồ Tát. Tại sao Ngài không dạy thẳng là muốn chứng Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt thì Diệt - sinh diệt là xong, mà phải dạy sáu Ba La Mật rồi thêm bốn Ba La Mật nữa. 

Với trí tuệ không ngăn ngại, Đức Như Lai quan sát chúng sanh cùng các vị tu sĩ đang ngôi trước mặt Ngài nghe giảng Pháp, học Pháp. Ngài thấy rằng tất cả chúng sanh cùng các vị tu sĩ trước kia cùng đồng thời với Ngài mà bây giờ Ngài đã bước lên ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Còn hầu hết chúng sanh đang chìm đắm trong Vô Minh, sinh tử, chỉ có một số ít biết tu hành thì đang ngồi trước Ngài nghe Ngài giảng Pháp. Vì thấy rõ sự sai biệt về ý chí, quyết tâm, đại nguyện, căn cơ … giữa Ngài và các vị tu sĩ nên Đức Thế Tôn không thể dạy thẳng được là “Diệt - Sinh Diệt” thì liền chứng bất sanh bất diệt. Để thích hợp với trình độ căn cơ của các vị tu sĩ từ “Diệt - Sinh Diệt” Đức Như Lai chia thành sáu Ba La Mật là sáu Bát Nhã Ba La Mật cộng thêm bốn Ba La Mật phụ giúp thành mười Ba La Mật. Cứu cánh mười Ba La Mậtvô sở đắc, vô sở trụ. Tại sao phải vô sở đắc, vô sở trụ thì mới chứng được Pháp bất sinh bất diệt. Đức Như Lai thấy rằng tất cả chúng sanh đều chấp chặt vào Thân - Tâm đang có, đâu biết rằng Thân - Tâm này không thật, nó do nhân duyên hợp thành, chính cái nhân cùng cái duyên hợp thành đó Phát sinh từ ô nhiễm. Và khi nó nhận thức đối tượng thì cũng chính là từ cái ô nhiễm đó, vì vậy nó thấy thế giới này không trung thực. Thí dụ cái nghe, Cái nghe thì gồm có âm thanh văn tựlời nói, trong ba cái đó nếu có một cái vượng lên thì thế gian chấp nhận và quên hai cái khác, thí dụ có một người lời nói thô ráp, văn từ cục mịch mà âm thanh thì du dương, do âm thanh du dương nên thế gian tán tụng và bỏ qua hai cái khác, còn văn tựlời nói cũng vậy, đó là sự ô nhiễm của cái nghe, các căn khác cũng vậy.

 Do ô nhiễm như vậy nên không thể “Diệt - Sinh Diệt” để chứng “Bất Sinh Bất Diệt” mà phải là mười “Ba La Mật” và vô sở đắc, vô sở trụ. Tại sao phải vô sở đắc, vô sở trụ? Vì nếu chứng đắc rồi trụ ở Ba La Mật nào thì không thể tiến lên Ba La Mật kế tiếp. Thí dụ bố thí là một trong sáu Ba La Mật đầu tiên, nếu có vị tu hành đúng theo Ba La Mật có nghĩa là “Bố Thí Bất Trụ Tướng” như Kinh Kim Cang giảng dạy. Tu hành bố thí đúng như Pháp thì vừa có phước đức và công đức, Phước đức chuyển hóa một phần Thân ô nhiễm, còn công đức chuyển hóa một phần Tâm tham.  Do chuyển hóa một phần ô nhiễm của Thân nên Thân được khinh an nhẹ nhàng, do chuyển hóa một phần Tâm tham nên Tâm được an lạc, trí tuệ phát sinh. Vị tu hành trải nghiệm qua thành quả đó thì  rất dễ bị chứng đắc an trụ, vì nó vượt qua tất cả những gì thế gian có, nên nó rất là thù thắng. Tại sao nó thù thắng vượt lên trên thế gian? Vì tự nó có, nó không vay mượn, không lệ thuộc ngoại cảnh, nên người thế gian không làm sao biết được. Dù nó thù thắng siêu việt như vậy, tuy nhiên nếu không lấy đó làm sở đắc rồi an trú ở đó thì không thể nào bước lên được Ba La Mật thứ hai là Giới. Mỗi Ba La Mật tiếp theo thì càng siêu việt thù thắng hơn lên nên phải vô sở đắc, vô sở trụ là vậy.  Do Thân - Tâm chúng sanh nhiều tầng  ô nhiễmvô lượng kiếp luân hồi, nên công dụng mười tầng Ba La Mật để chuyển hóa sự ô nhiễm từ thô đến tế, đến vì tế, cho đến cùng cực vì tế của cái Thân nặng nề, còn Tâm cũng vậy, được giải phóng tất cả sự trói buộc từ thô đến tế cho đến cùng cực vì tế. Cho đến không còn gì để trụ để đắc nữa, tức là “Sinh Diệt Đã Diệt”. Ngay lúc “Sinh Diệt Đã Diệt” thì Pháp Thường Trụ “bất sanh bất diệt” hiện tiền. Vậy Pháp gì là Pháp bất sanh bất diệt Thường Trụ? Chính là Pháp Sinh Diệt, vì Sinh Diệt đã Diệt thì không còn hai Pháp nữa.

Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đức Thế Tôn thuyết giảng có hai phần một là Thuyết Thông một là Tông Thông. Thuyết ThôngThế tục đế là giảng dạy cho hàng sơ cơ, còn Tông Thông là giảng cho hàng có trí tuệ đã thấy Pháp hay là Đệ Nhất Nghĩa Đế, hay thần chú Tâm Kinh câu đầu là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” là Thuyết Thông để phân tích giảng giải cho các vị sơ cơ. Còn câu thứ hai là “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” là Đệ Nhất Nghĩa Đế, là chỉ thẳng vào Tâm không qua trung gian giải thích hãy phân tích. Về Tông Thông thì phải là những vị Bồ Tát tu hành đã có trí tuệ đã thấy Pháp thì mới nhận ra được. Vì sao Đức Như Lai dùng cả Tông Thông và Thuyết Thông để thuyết giảng  Kinh Bát Nhã Ba La Mật? Thật ra các vị tu sĩ nhị thừa đã theo Đức Thế Tôn hơn hai mươi năm, đã tu hành đã chứng đắc giáo Pháp Tứ Thánh Đế, có nhiều vị chứng đắc Niết Bàn tịch tịnh hay Tứ Thánh Quả. Tuy nhiên, khi theo học với Thế Tôn thì các vị đó đều là giáo chủ một phương, hay là thông minh tuyệt đỉnh, hay là có những hạnh tu hành khó có người thực hành được, hay là Thần thông siêu việt v.v. Trước khi theo học với Thế Tôn thì các vị tu sĩ đó đều là Bà La Môn, thông thuộc giáo Pháp Bà La Môn, từng là đạo sư giảng dạy giáo lý Bà La Môn, nên cho dù các vị đó có chứng đắc Tứ Thánh Quả thì nơi sâu xa ký ức lưu trữ giáo lý Bà La Môn vẫn còn chưa được xả ly. Vì vậy, bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Thế Tôn để các vị đó trình bày diễn giải toàn bộ giáo lý  Bà La Môn mà từ nơi sâu xa các vị đó chưa xả ly được.

Mãn Tự
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3852)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2825)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2906)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2510)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2562)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2542)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2231)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2534)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2894)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3847)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
(Xem: 2869)
Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. C
(Xem: 3507)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li
(Xem: 2719)
Trong những ngày đầu năm mới, có rất nhiều người tìm đến chùa hay các nhà tử vi, tướng số để xem năm nay mình bị “sao” nào “chiếu”.
(Xem: 2322)
Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thì Tự tánh vô công khắp hiện bày Sáu căn vận dụng chân thường thấy Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri.
(Xem: 3211)
Một ngày cuối năm, sau tách trà sáng chào ngày mới, tôi vội vàng ra ga tàu đón người bạn đạo xa quê trở về thăm chốn cũ.
(Xem: 2777)
Trong những điển tích Phật giáo, tôi từng băn khoăn về chuyện một con cọp lông vàng. Câu chuyện đơn giản thôi, nhưng rất đáng cho chúng ta suy ngẫm.
(Xem: 2475)
Vận hành thế sự bao quanh, bát quái càn khôn đỉnh là chung, âm dương ngũ hành là như thế, vật đổi sao dời chẳng ai ngờ…! Tất nhiên điệp khúc vẫn là đây.
(Xem: 2763)
Cọp, Sư tửbiểu tượng của chúa sơn lâm. Tiếng rống của Sư tử chúa, làm muôn thú khép mình khiếp sợ, được nhiếp phục trước uy lực dũng mãnh.
(Xem: 3410)
Bài Pháp hôm nay là một trong những bài Pháp có thể nói rằng rất khó quên trong cuộc đời của chúng tôi.
(Xem: 3711)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 3844)
Dù có nao nức đợi chờ hay hững hờ thờ ơ, dù có mong mỏi hay chẳng cầu vọng thì mùa xuân vẫn hiển hiện trong đất trời, trong lòng người.
(Xem: 2452)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu ngài thuyết pháp, ngài đã nói như sau:
(Xem: 2439)
Năm mới là thời điểm nổi bật trong cuộc sống của chúng ta. Tôi nói thế khi nghĩ về việc thực hành của chúng ta.
(Xem: 2184)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn ...
(Xem: 3674)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 2784)
Để đạo Phật được toàn cầu hóa, ngoài những lợi thế sẵn có của Phật giáo Nguyên thủy, như bảo tồn được ...
(Xem: 3976)
Như Lai đã khẳng định “Như Lai chỉ là người dẫn đường”. Quả đúng như vậy, nếu chúng ta muốn đi đến đích mà không biết đường, trước tiên...
(Xem: 3165)
Nếu ăn chay được thì đó là dựa vào lập trường từ bi chứ không phải như người ta hiện này nói nguyên nhân khỏe mạnh và kinh tế.
(Xem: 3625)
Chúng ta phải cẩn thận để không nghĩ rằng hành thiền là phải dẹp bỏ các suy tưởng.
(Xem: 2831)
Bài kinh ngắn “Con Đường Không Có Lầm Lỗi” là bài kinh được trích trong Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikãya)
(Xem: 3708)
Thời Lý – Trần là thời kỳ vàng son nhất của Phật giáo Việt Nam khi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ triều đình và
(Xem: 3201)
Kể từ khi Đức Phật thành đạochuyển bánh xe pháp thì lý tưởng thực thi tinh thần bình đẳng giải thoátbình đẳng...
(Xem: 3286)
Cho đến nay, đại dịch COVID-19 đã hoành hành trên thế giới gần hai năm.
(Xem: 2867)
Bình anhạnh phúc là hai phạm trù cơ bản trong cuộc sống mà con người luôn mong ước đạt được đầy đủ và trọn vẹn nhất, để cuộc sống thêm thăng hoa
(Xem: 2632)
Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt.
(Xem: 3611)
Trong xã hội hiện nay, chúng ta đề cao tinh thần nhập thế, đem đạo vào đời. Vậy làm thế nào để Phật sự mãi thăng tiến, tỏa sáng, ma sự ngày càng tiêu trừ.
(Xem: 2573)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3066)
Sự phát triển của thời đại công nghệ số, cám dỗ vật chất và những thách thức từ khủng hoảng môi trường, dịch bệnh, kinh tế, xã hội,…
(Xem: 3466)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3664)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2805)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2563)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3046)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3559)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3123)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3221)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2842)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3308)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3645)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant