Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thường Và Vô Thường

26 Tháng Ba 201918:42(Xem: 5593)
Thường Và Vô Thường

THƯỜNG VÀ VÔ THƯỜNG

Mãn Tự


Hết Củi Thì Lửa Tắt


Giáo Pháp
Đức Thế Tôn Như Lai truyền lại có hai cấp độ là Thường và Vô Thường. Tuy nhiên từ lâu những bậc tu hành hay những luận giải của các bậc Tôn Túc chỉ nói đến Vô Thường còn Thường thì không thấy nói đến.

Nói đến Vô Thường thì có bài kệ bốn câu của vị Thiền Sư người Việt chúng ta, mà hầu hết giới tu hành hiện tại đều tâm đắc đó là:

Nguyên văn:

Thân như điện ảnh, hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch nghĩa:
Thân như ánh chớp có rồi không
Vạn vật xuân xanh thu héo tàn
Nhậm vận thịnh suy không sợ hãi
Thịnh suy như sương trên ngọn cỏ

 Với bài kệ ở trên chắc chắn vị Thiền Sư đã ngộ ra lý Vô Thường. Tu hành mà ngộ được lý Vô Thường thì thế gian không còn ràng buộc, không còn lo sợ sự Vô Thường sanh diệt đến đi, đã dứt được phiền não thế gian Tâm được nhẹ nhàng an lạc giải thoát. Đã đứng trên nhân gian, đã thấy được chân đế, được thế gian tôn trọng cúng dường.

Thật vậy, đó là cấp độ mà người tu hành mong cầu chứng ngộ, dù vậy khi đến đó mà không xả bỏ, không tiếp tục tinh tiến dũng mãnh đi lên, không được Như Lai quán đảnh, thỏa mãn với sự mong cầu và an trụ ở đó thì không thể nào thấy được, chứng được Pháp Thường Trụ, dù rằng từ Pháp Vô Thường đến chứng Pháp Thường Trụ chỉ cách nhau một đường tơ. Tuy nhiên muốn bước lên chứng Pháp Thường Trụ thì cần phát đại nguyện, phải có Tâm dũng mãnh, phải dám hi sinh,  phải có đại nhẫn, phải đầy đủ phẩm hạnh, phải nguyện độ tận chúng sinh làm cứu cánh, giống như phẩm Bồ Tát sơ Pháp Tâm trong kinh Hoa Nghiêm vậy.

Từ giác ngộ được Pháp Vô Thườngquyết Tâm tu học để chứng được Pháp Thường Trụ thì phải tu học như thế nào?  Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Thế Tôn Như Lai thuật lại tiến trình cầu Pháp Thường Trụ của Ngài. Vì ngộ ra lý Vô Thường của Vạn Pháp, không lưu luyến, từ bỏ thế gian đi vào rừng sâu núi thẳm làm một vị tiên nhân cô độc để mong tìm cầu Pháp Thường Trụ. Vì xa lánh nhân gian nên sáu căn không tiếp xúc sáu trần.  Ở trong môi trường vắng lặng như vậy Ngài dùng tất cả thời gian để thiền định trầm tư mong cầu giác ngộ Pháp thường trú. Không bằng lòng với hai câu kệ mà Ngài ngộ được là: “Chư hành Vô Thường là Pháp sinh diệt” . Với Tâm  thệ nguyện rộng lớn của Ngài là độ tận chúng sanh thì Pháp Vô Thường không đủ trí tuệ để độ được. Thiền định trầm tư như vậy qua không biết bao nhiêu thời gian, dù vậy vẫn không có một chút ánh sáng nào lóe lên. Cho đến một ngày Ngài chấp nhận xả bỏ tính mạng cho quỷ La Sát ăn để học được hai câu kệ mà từ lâu Ngài mong cầu đó là “Sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”( muốn hiểu thêm đoạn kinh này hãy tìm đọc kinh Đại Bát Niết Bàn của hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch)

Đức Thế Tôn chấp nhận hy sinh Thân mạng để cầu được Pháp Thường Trụ bất sinh bất diệt rồi dạy lại cho chúng sanh. Từ chư hành Vô Thường, là Pháp sinh diệt cho đến “Sinh diệt -  diệt rồi, tịch diệt là vui”

Như vậy, từ Pháp Vô Thường đến Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt chỉ cách nhau một bước, khi còn đứng ở Pháp Vô Thường sinh diệt thì thấy có hai là Thường và Vô Thường. Tuy nhiên,  khi Sinh Diệt đã Diệt thì không còn Thường hay Vô Thường gì hết mà là Chân như bất sanh bất diệt vậy. Pháp gì là Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt? Chính là “Chư hành Vô Thường là Pháp sinh diệt”

Tu hành để chứng Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt thì trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Thế Tôn tu “Diệt - Sinh Diệt” mà chứng. Trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Ngài dạy chư vị tu sĩ vô sở đắc, vô sở trụ hay trong Kinh Bát Nhã Tâm Kinh dạy Đi qua - Đi qua. Tuy từ ngữsai biệt nhưng ý nghĩa giống nhau là cùng đi tới Cứu Cánh chứng Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt.

Tại sao có sự sai biệt từ ngữ như vậy? Diệt - sinh diệt. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn là Ngài thuật lại bổn sự hành trang tu hành của Ngài. Đức Thế Tôn không có thầy, những gì Ngài thấy được, giác ngộ được là do công phu tu hành tìm cầu trong vô lượng kiếp, vô lượng thời gian, xả bỏ Thân thể hình hài không thể tính đếm mới có được. Còn Kinh Bát Nhã Ba La Mậtphương tiện diệu dụng của Đức Như Lai chỉ dạy cho các bậc tu sĩ nhị thừa và sơ Pháp Tâm Bồ Tát. Tại sao Ngài không dạy thẳng là muốn chứng Pháp Thường Trụ bất sanh bất diệt thì Diệt - sinh diệt là xong, mà phải dạy sáu Ba La Mật rồi thêm bốn Ba La Mật nữa. 

Với trí tuệ không ngăn ngại, Đức Như Lai quan sát chúng sanh cùng các vị tu sĩ đang ngôi trước mặt Ngài nghe giảng Pháp, học Pháp. Ngài thấy rằng tất cả chúng sanh cùng các vị tu sĩ trước kia cùng đồng thời với Ngài mà bây giờ Ngài đã bước lên ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Còn hầu hết chúng sanh đang chìm đắm trong Vô Minh, sinh tử, chỉ có một số ít biết tu hành thì đang ngồi trước Ngài nghe Ngài giảng Pháp. Vì thấy rõ sự sai biệt về ý chí, quyết tâm, đại nguyện, căn cơ … giữa Ngài và các vị tu sĩ nên Đức Thế Tôn không thể dạy thẳng được là “Diệt - Sinh Diệt” thì liền chứng bất sanh bất diệt. Để thích hợp với trình độ căn cơ của các vị tu sĩ từ “Diệt - Sinh Diệt” Đức Như Lai chia thành sáu Ba La Mật là sáu Bát Nhã Ba La Mật cộng thêm bốn Ba La Mật phụ giúp thành mười Ba La Mật. Cứu cánh mười Ba La Mậtvô sở đắc, vô sở trụ. Tại sao phải vô sở đắc, vô sở trụ thì mới chứng được Pháp bất sinh bất diệt. Đức Như Lai thấy rằng tất cả chúng sanh đều chấp chặt vào Thân - Tâm đang có, đâu biết rằng Thân - Tâm này không thật, nó do nhân duyên hợp thành, chính cái nhân cùng cái duyên hợp thành đó Phát sinh từ ô nhiễm. Và khi nó nhận thức đối tượng thì cũng chính là từ cái ô nhiễm đó, vì vậy nó thấy thế giới này không trung thực. Thí dụ cái nghe, Cái nghe thì gồm có âm thanh văn tựlời nói, trong ba cái đó nếu có một cái vượng lên thì thế gian chấp nhận và quên hai cái khác, thí dụ có một người lời nói thô ráp, văn từ cục mịch mà âm thanh thì du dương, do âm thanh du dương nên thế gian tán tụng và bỏ qua hai cái khác, còn văn tựlời nói cũng vậy, đó là sự ô nhiễm của cái nghe, các căn khác cũng vậy.

 Do ô nhiễm như vậy nên không thể “Diệt - Sinh Diệt” để chứng “Bất Sinh Bất Diệt” mà phải là mười “Ba La Mật” và vô sở đắc, vô sở trụ. Tại sao phải vô sở đắc, vô sở trụ? Vì nếu chứng đắc rồi trụ ở Ba La Mật nào thì không thể tiến lên Ba La Mật kế tiếp. Thí dụ bố thí là một trong sáu Ba La Mật đầu tiên, nếu có vị tu hành đúng theo Ba La Mật có nghĩa là “Bố Thí Bất Trụ Tướng” như Kinh Kim Cang giảng dạy. Tu hành bố thí đúng như Pháp thì vừa có phước đức và công đức, Phước đức chuyển hóa một phần Thân ô nhiễm, còn công đức chuyển hóa một phần Tâm tham.  Do chuyển hóa một phần ô nhiễm của Thân nên Thân được khinh an nhẹ nhàng, do chuyển hóa một phần Tâm tham nên Tâm được an lạc, trí tuệ phát sinh. Vị tu hành trải nghiệm qua thành quả đó thì  rất dễ bị chứng đắc an trụ, vì nó vượt qua tất cả những gì thế gian có, nên nó rất là thù thắng. Tại sao nó thù thắng vượt lên trên thế gian? Vì tự nó có, nó không vay mượn, không lệ thuộc ngoại cảnh, nên người thế gian không làm sao biết được. Dù nó thù thắng siêu việt như vậy, tuy nhiên nếu không lấy đó làm sở đắc rồi an trú ở đó thì không thể nào bước lên được Ba La Mật thứ hai là Giới. Mỗi Ba La Mật tiếp theo thì càng siêu việt thù thắng hơn lên nên phải vô sở đắc, vô sở trụ là vậy.  Do Thân - Tâm chúng sanh nhiều tầng  ô nhiễmvô lượng kiếp luân hồi, nên công dụng mười tầng Ba La Mật để chuyển hóa sự ô nhiễm từ thô đến tế, đến vì tế, cho đến cùng cực vì tế của cái Thân nặng nề, còn Tâm cũng vậy, được giải phóng tất cả sự trói buộc từ thô đến tế cho đến cùng cực vì tế. Cho đến không còn gì để trụ để đắc nữa, tức là “Sinh Diệt Đã Diệt”. Ngay lúc “Sinh Diệt Đã Diệt” thì Pháp Thường Trụ “bất sanh bất diệt” hiện tiền. Vậy Pháp gì là Pháp bất sanh bất diệt Thường Trụ? Chính là Pháp Sinh Diệt, vì Sinh Diệt đã Diệt thì không còn hai Pháp nữa.

Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đức Thế Tôn thuyết giảng có hai phần một là Thuyết Thông một là Tông Thông. Thuyết ThôngThế tục đế là giảng dạy cho hàng sơ cơ, còn Tông Thông là giảng cho hàng có trí tuệ đã thấy Pháp hay là Đệ Nhất Nghĩa Đế, hay thần chú Tâm Kinh câu đầu là “Sắc bất dị không, không bất dị sắc” là Thuyết Thông để phân tích giảng giải cho các vị sơ cơ. Còn câu thứ hai là “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” là Đệ Nhất Nghĩa Đế, là chỉ thẳng vào Tâm không qua trung gian giải thích hãy phân tích. Về Tông Thông thì phải là những vị Bồ Tát tu hành đã có trí tuệ đã thấy Pháp thì mới nhận ra được. Vì sao Đức Như Lai dùng cả Tông Thông và Thuyết Thông để thuyết giảng  Kinh Bát Nhã Ba La Mật? Thật ra các vị tu sĩ nhị thừa đã theo Đức Thế Tôn hơn hai mươi năm, đã tu hành đã chứng đắc giáo Pháp Tứ Thánh Đế, có nhiều vị chứng đắc Niết Bàn tịch tịnh hay Tứ Thánh Quả. Tuy nhiên, khi theo học với Thế Tôn thì các vị đó đều là giáo chủ một phương, hay là thông minh tuyệt đỉnh, hay là có những hạnh tu hành khó có người thực hành được, hay là Thần thông siêu việt v.v. Trước khi theo học với Thế Tôn thì các vị tu sĩ đó đều là Bà La Môn, thông thuộc giáo Pháp Bà La Môn, từng là đạo sư giảng dạy giáo lý Bà La Môn, nên cho dù các vị đó có chứng đắc Tứ Thánh Quả thì nơi sâu xa ký ức lưu trữ giáo lý Bà La Môn vẫn còn chưa được xả ly. Vì vậy, bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Thế Tôn để các vị đó trình bày diễn giải toàn bộ giáo lý  Bà La Môn mà từ nơi sâu xa các vị đó chưa xả ly được.

Mãn Tự
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12852)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11531)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16737)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 19804)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 15790)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13025)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 12970)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13003)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15443)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12167)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 12966)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15629)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13733)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 14959)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13683)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13656)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 12869)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13557)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13425)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15119)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14568)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13730)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14047)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13261)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13270)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14498)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13724)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 14825)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17544)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14265)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16678)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
(Xem: 17864)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15354)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15240)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 16874)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29168)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16138)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 17892)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19142)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21270)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19611)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 22808)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17129)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17524)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16071)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 15844)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21568)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19658)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20031)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19293)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant