Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khám Phá Rắc Rối Phát Sinh và Dừng Lại Như Thế Nào

25 Tháng Ba 201910:58(Xem: 3929)
Khám Phá Rắc Rối Phát Sinh và Dừng Lại Như Thế Nào

KHÁM PHÁ RẮC RỐI PHÁT SINH VÀ DỪNG LẠI NHƯ THẾ NÀO

 

Nguyên bản: Discovering how trouble starts and stops

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Saturday, February 16, 2019

-*-

SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ HAI: NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (TẬP ĐẾ)

Sau khi đã xác định phạm vi của khổ đau, chúng ta cần khám phá nguồn gốc của nó, vốn có hai phần: phiền não, hay chướng ngại ẩn tàng, các cảm xúc, và nghiệp chướng nhiễm ô.

 

Các Cảm Xúc Phiền Não Chướng Ngại Ẩn Tàng

 

Vì các cảm xúc phiền não, nghiệp chướng nhiễm ô, hay các hành vi, tôi sẽ thảo luận chúng trước tiên. Có hai loại cảm xúc phiền não – một thứ là rõ ràng và thứ kia không rõ ràng. Một thí dụ về thứ rõ ràng là nổi sợ hãi kinh khủng từ quá khứ đã trở thành cố định trong tâm thức. Trong trường hợp này, một cách chắc chắn thì thật lợi lạc để cho cảm giác của ta biểu lộthảo luận về vấn đề ấy.

 

Khi tôi khoảng mười bốn tuổi vào mùa hè ở Cung điện Norbulingka, vị Nhiếp Chính (người lúc ấygiáo thọ trưởng của tôi) la mắng tôi sau một bài giảng mà ông dạy hàng năm. Với một thái độ nghiêm khắc, ông nói, “Ngay cả ngài tương đương với một vị trời, thái độ của ngài vẫn phải làm cho phù hợp với một con người.” Tôi bị tổn thương bởi vì tôi đã nghĩ rằng tôi đang hành động như một học trò bình thường đang lắng nghe ông giảng dạy mặc dù tôi là Đạt Lai Lạt Ma thứ bậc ở trên ông. Tôi bị bức rức và không thoải mái cả vài tháng sau. Rồi thì quân Trung Cộng xâm lăng miền Đông Tây Tạng vào năm 1950, và tôi phải đào thoát khỏi thủ đô Lhasa đến Tomo ở miền Tây Nam Tây Tạng gần biên giới với Ấn Độ. Đúng lúc các quan chức ở Lhasa khuyến nghị tôi rằng tình trạng có thể xoay sở được và tôi nên trở lại. Trong khi tôi trên đường trở lại Lhasa, chúng tôi dành vài ngày ở lại tu viện của vị Nhiếp Chính, Talungdra. Một ngày nọ, ông đã hỏi tôi trong buổi nói tán chuyện ngẫu nhiên rằng có phải vì thái độ của ông mà tôi đã từng phiền lòng không. Tôi đã đề cập những vì đã từng xảy ra, thế nào đấy một cách mơ hồ, không chi tiết lắm. Thật là khuây khỏa! Thế là chúng tôi có một dịp trú ngụ dễ chịutu viện.

 

Thật tốt đẹp để nói về những thứ như vậy vốn xảy ra chỉ một lần, trái lại những thứ cảm xúc phản tác dụng – vốn bao gồm những thứ cảm giác như tham dục, oán hận, thù hằn, ganh tỵ, và giao tranh – không nên được biểu hiện; bằng không chúng trở thành thường xuyên hơn. Biểu lộ chúng có xu hướng làm chúng mạnh hơn và lan tràn. Thật tốt đẹp để quán chiếu về những bất lợi của việc tiến hành trong những cảm xúc như vậy và thay thế chúng với những cảm giác của hài lòngyêu thương. Chúng ta nên vượt thắng một cách mạnh mẽ những cảm xúc tiêu cực khi chúng xuất hiện, nhưng thậm chí sẽ là tốt đẹp hơn để tìm cách ngăn chặn chúng ngay từ đầu.

 

Tham dục và thù hận làm sinh khởi những cảm xúc phản tác dụng khác và do thế tạo nên hàng loạt vấn nạn trong thế giới này. Chúng ta không thể toại nguyện để sống với những hậu quả của tham dục và thù hận. Trong hai thứ này, thù hận là tệ hại hơn cả trên căn bản tức thời bởi vì  nó đem đến tổn hại một cách nhanh chóng cho người khác, nhưng tham dục tương ứng cho việc đưa đẩy trong tiến trình của sinh tử luân hồi – những vòng bất tận của sinh, già, bệnh, chết – từ kiếp này đến kiếp khác.

 

Gốc rễ của tham dục và thù hận là si mê về bản chất chân thật của tất cả chúng sinh hữu tình (động vật) cũng như mê mờ về bản chất của chúng sinh vô tình (sự vật). Sự si mê này không chỉ là thiếu hiểu biết mà cũng là một ý thức tưởng tượng đối ngược với lẽ thật; hiểu sai những gì thật sự như vậy. Có nhiều trình độ của nhận thức sai lầm, như thất bại để thấu hiểu những gì nên tiếp nhận trong thực tập và những gì cần loại bỏ trong thái độ hàng ngày, nhưng ở đây chúng ta đang nói về sự si mê ở gốc rễ của tất cả mọi khổ đau. Đây là khái niệm rằng tất cả chúng sinh hữu tình và những hiện tượng khác tồn tại một cách cố hữu, trong và của chính chúng. Tôi sẽ thảo luận về chủ đề khó này trong Chương Tám, Chín và Mười.

 

Nghiệp Chướng Nhiễm Ô

 

Tất cả mọi sự vui sướngđau khổ tùy thuộc vào nghiệp và những hành vi quá khứ, chúng đã tạo ra những khuynh hướng trong tâm thức. Nghiệp có thể được phân chia thành đạo đức và không đạo đức tùy vào chúng hoặc là phát sinh vui sướng hay đau khổ về lâu dài. Thí dụ, nếu hệ quả của một hành vi là để xuất sinh một đời sống mới của con người, thế thì hành vi đó là đạo đức vì hệ quả lâu dài của nó là sự luân hồi tốt đẹp. Trái lại, nếu hệ quả của một hành vi là làm sự tái sinh của ta như một quỷ đói, thế thì hành vi ấy là không đạo đức vì hệ quả lâu dài của nó là là một sự luân hồi xấu.

 

Nghiệp cũng có thể được phân chia thành (1) những thứ vốn xây dựng bản phác họa tổng quát của một kiếp sống mới bằng việc quyết định loại tái sinh nào cũng như tuổi thọ của đời sống ấy, và (2) những thứ vốn ghi vào các chi tiết của một kiếp sống, chẳng hạn như sự thịnh vượng, sức khỏe tốt, và v.v… Loại (1) được gọi là “con đường của hành động” vì hành động ấy (đạo đức hay không) phục vụ như một con đường, hay một phương tiện, đến một kiếp sống hoàn toàn trong một sự luân hồi hạnh phúc hay một sự luân hồi khốn khó. Để là một “con đường của hành động”, một nghiệp nhân phải có bốn đặc trưng: ý định thúc đẩy; xác định chính xác về cá nhân hay đối tượng; chuẩn bị đúng mức; và hoàn toàn thành tựu. Đôi khi tất cả những nhân tố này xảy ra, như trong trường hợp chúng taý muốn cho một người ăn xin và thật sự làm như thế; đôi khi chỉ có động cơ hiện diện, và ta có ý muốn cho một người ăn xin nhưng không thật sự làm như thế; hay ta có thể có một kết quả vô ý thức, nếu một vài đồng tiền rơi qua một cái lỗ của túi áo ta nằm trên lề đường và người ăn xin lượm nó lên. Các hành động không có tất cả bốn đặc trưng có thể rơi vào loại (2), vốn ghi vào trong chi tiết của một kiếp sống. 

 

Cuối cùng, những thứ nghiệp có thể được phân chia thành những loại thực hiện bởi những nhóm, chẳng hạn như tổ chức từ thiện, và những loại thực hiện cá nhân. Những hệ quả của các thứ nghiệp có được trải nghiệm trong cùng một kiếp sống, trong kiếp sống tới, hay trong một kiếp sau đó. Những nghiệp đạo đức hay không đạo đức mạnh mẽ với động cơ đầy năng lực để hổ trợ hay làm tổn hại có thể mang lại các hệ quả của chúng trong cùng một kiếp sống. 

 

Tiến Trình Của Sự Chết

 

Nhằm để thấu hiểu các loại nghiệp và những đặc điểm đặc biệt của chúng của những trình độ tu tập cao nhất, thì chúng ta cần thấu hiểu động lực của ba giai đoạn: tiến trình của sự chết; trạng thái trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp sống tới; và tiến trình tái sinh từ trạng thái trung ấm thân. Sự trao truyền các nghiệp nhân từ kiếp sống này sang kiếp sống khác xảy ra lúc lâm chung qua một tâm thức rất vi tế của linh quang. Mặc dù trình độ sâu sắc nhất này của tâm thức tồn tại qua đời sống, nhưng nó chỉ biểu hiện vào lúc lâm chung, và do vậy thường được giảng dạy trong phạm vi này.

 

Ta có thể học hỏi thêm về điều này trong nhiều bản văn của Tantra Yoga Tối Thượng (Vô Thượng Du Già), được Đức Phật giảng dạy, chẳng hạn như Mật Điển Bí Mật Tập Hội. Những văn bản này diễn tả nhiều đặc trưng khác nhau của tâm hay thức, đi từ thô đến vi tế. Những thể trạng vi tế của tâm là năng lựchiệu quả hơn khi được áp dụng trong sự thực hành tâm linh. Trình độ thô của thức lãnh hội qua mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân thức. Vi tế hơn là ý thức, tự nó vốn đi từ những trình độ thô, chẳng hạn như ý nghĩ thông thường, đển giấc ngủ sâu và bất tĩnh nhân sự khi hơi thở đã dừng, đến tâm vi tế sâu nhất của linh quang. Ngoại trừ trong những thể trạng thiền định ngoại hạng,  bằng không thì thức vi tế nhất hay sâu xa nhất tự nó chỉ biểu hiện khi chúng ta lâm chung, sắp chết. (Rút lui kém và do thế phiên bản tóm tắt cua những trình độ vi tế của thức cũng xảy ra khi ngủ, chấm dứt một giấc mơ, nhảy mũi, ngáp, và trong lúc xuất tinh. Tôi sẽ thảo luận thứ cuối cùng trong Chương Bổn Tôn Du Già)

 

Tiến trình của sự chết liên hệ đến một loại chấm dứt, hay hòa tan, của bốn yếu tố nội tại: đất (vật thể rắn của thân thể); nước (chất lỏng), lửa (sức nóng), gió (năng lượng, chuyển động). Trong đời sống bình thường, những yếu tố này phục vụ như căn bản cho thức, nhưng trong tiến trình lâm chung, năng lực của chúng hổ trợ cho thức giảm lần, bắt đầu với yếu tố đất. Mỗi bước trong tiến trình hòa tan thật sự gia tăng năng lực của yếu tố tiếp theo để hổ trợ cho thức. Từng bước một giống như thế này:

 

1-   Khi yếu tố đất, hay chất cứng của thân thể ta hòa tan vào yếu tố nước, sự biểu lộ bên ngoài là thân thể trở nên gầy ốm hơn; nội tại, ta thấy những gì xuất  hiện là một ảo giác được thấy trong một sa mạc.

2-   Khi yếu tố nước của thân thể hòa tan vào yếu lửa, những dấu hiệu bên ngoài là chất lỏng trong thân thể cạn kiệt – miệng khô, mũi co dúm lại, và v.v…; nội tại ta thấy những gì được diễn tả như luồng khói từ một ống khói hay khói tràn ngập khắp phòng.

3-   Khi yếu tố lửa của thân thể hòa tàn vào trong yếu gió, hay không khí, sự biểu lộ bên ngoài là sức nóng của thân bị giảm dần; nội tại, ta thấy những gì giống như những con đom đóm vào ban đêm hay giống như những tia lửa bắn ra. Sức nóng rút lui khỏi thân thể trong những cách khác nhau – (1) từ bàn chân lên đến tim hay (2) từ đỉnh đầu đi xuống. Cách (1) tốt đẹp hơn bởi vì nó biểu thị rằng tâm thức sẽ xuất khỏi thân thể hoặc là đi lên hoặc là thẳng tới, không đi xuống, và vì vậy sẽ rất có thể hướng đến một kiếp sống tới thuận lợi. Điều này  được hình thành bởi nghiệp đạo đức.

4-   Tiếp theo, gió hay chuyển động năng lượng trong thân thể, hòa tan vào thức, và hơi thở bên ngoài chấm dứt; vào lúc này ta thấy một hiện tướng giống như ánh sáng ở trên một cây đèn sáp nhấp nháy khi cháy gần hết. (Một số bác sĩ xem người ở trạng thái này là đã chết, nhưng theo quan điểm Phật giáo việc chấm dứt hơi thở bên ngoài không có nghĩa là thần thức đã rời thân thể.) Ánh sáng nhấp nháy được tiếp theo bởi hiện tướng của một ngọn lửa ổn định.

 

Bốn giai đoạn cuối cùng của sự chết liên hệ sự hòa tan những trình độ thô của thức vào các trình độ vi tế hơn. Điều này xảy ra khi gió, hay năng lượng bên trong, vốn phục vụ như sự gắn kết của thức tan rả. Hãy nghĩ về thức như cưỡi trên năng lượng như một kỵ mã trên lưng ngựa. Trong việc chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo, những năng lượng vốn phục vụ như sự gắn kết của nhiều loại ý thức hòa tan, di chuyển căn bản của thức từ các trình độ thô đến vi tế hơn của năng lượng. Những việc này xảy ra dần dần trong bốn giai đoạn.

5-   Tâmcủa ta tự nó biến thành một tính chất màu trắng cùng khắp, rộng lớn sinh động. Nó được diễn tả như bầu trời trong sáng tràn đầy ánh sáng của mặt trăng – không phải mặt trăng chiếu sáng trong không gian trống rỗng mà không gian tràn đầy ánh sáng trắng. Tư tưởng khái niệm đã tan biến, và không có gì hiện hữu ngoại trừ sự trắng trong sinh động này, vốn là thứccủa chúng ta. Tuy nhiên, một cảm nhận vi tế về chủ thể và đối tượng vẫn duy trì, cho nên thể trạng này là nhị nguyên một cách nhẹ nhàng.

6-   Tâm ta biến thành tính chất đỏ hay cam rộng lớn, sinh động hơn trước đây; không có gì khác xuất hiện. Nó giống như một bầu trời trong sáng tràn đầy ánh sáng mặt trời – không phải ánh sáng mặt trời chiếu sáng trong bầu trời mà là tự không gian như vậy, tràn đầy ánh sáng đỏ hay cam. Trong thể trạng này tâm thức ít nhị nguyên hơn nữa.

7-   Tâm ta tự nó biến thành thể trạng màu đen tĩnh lặng, vi tếsinh động hơn nữa; không có gì khác xuất hiện. Điều này được gọi là “gần thành tựu”, bởi vì ta đang gần đến sự biểu hiện của tâm linh quang. Tâm màu đen sinh động rộng khắp giống như một bầu trời không có mặt trăng, rất tối đúng ngay sau khi hoàng hôn khi không có một vì sao nào được thấy. Vào lúc bắt đầu giai đoạn này, ta tỉnh thức, nhưng rồi thì ta mất sự tỉnh thức khi ta trôi vào trong bóng đen dày đặc hơn.

8-   Khi hiện tướng của tâm màu đen chấm dứttâmta tự nó biến thành tâm tỉnh thức hoàn toàn của linh quang. Được gọi là tâm bẩm sinh nền tảng của linh quang, đây là trình độ vi tế, thậm thâm, và năng lực nhất của thức. Nó giống như thể trạng bản chất của bầu trời vào lúc bình minh (mặt trời chưa ló dạng) – không có ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, hay bóng tối.

 

Giai đoạn trải qua tâm linh quang có thể nhanh hay chậm. Một số người duy trì trong giai đoạn cuối cùng, tâm linh quang của sự chết, chỉ vài phút; những người khác trú lại cả tuần hay hai tuần. Vì tâm linh quang năng lực rất mạnh mẽ, cho nên nó đáng để thực tập, nhiều hành giả Tây Tạng diễn tập những giai đoạn lâm chung này hàng ngày. Chính tôi thực hành chúng sáu lần trong ngày bằng việc quán tưởng tám trình độ của tâm thức từng thứ một (dĩ nhiên, không có những thay vật lý trong bốn giai đoạn đầu). Tám trình độ của tâm là:

 

1-   ảo giác

2-   luồng khói

3-   đom đóm

4-   ngọn lửa của ngọn đèn sáp

5-   tâm bầu trời trắng sinh động

6-   tâm bầu trời đỏ hay cam sinh động

7-   tâm bầu trời đen sinh động

8-   linh quang

 

Trong tiến trình lâm chung, chúng ta biết rằng người ở trong linh quang cho đến khi thân thể không bắt đầu bốc mùi hay phân hủy. Có những người Tây Tạng bị tra tấn và, trong việc bị đưa lại phòng giam giữ của họ, ngồi xếp bằng trong tiến trình của sự chết, duy trì tâm linh quang. Tin tức cho biết rằng, những cai ngục Trung Cộng đã kinh ngạc về điều này. Theo quan điểm giáo điều của họ, họ xem Phật giáomù quáng, cho nên khi họ đối diện với những bằng chứng như vậy, họ cố gắng giữ im lặng về nó. Ở Ấn Độ cũng vậy, có một số những hành giả đã duy trì trong thể trạng này, đôi khi vài ngày và trong một trường hợp khoảng mười bảy ngày. Khi một người đang an trú trong thể trạng linh quang, nếu năng lượng hổ trợ cho trình độ sâu thẩm này của tâmbắt đầu thay đổi, vào lúc ấy thứccuối cùng lìa thân thể, và thân thể hay đầu chuyển động một cách nhẹ nhàng.

 

Có nhiều cơ  hội cho những việc thẩm tra xa hơn trong những thể trạng đa dạng của sự chết. Khoa học hiện đại đã làm những việc nghiên cứu hữu dụng về sóng năng lượng, não bộ con người, và những chức năng của nó. Các nhà khoa học và Phật học chia sẻ một sự quan tâm chung về lãnh vực này, và tôi tin tưởngchúng ta nên làm việc với nhau để điều tra mối quan hệ giữa tâmnăng lượng bên trong của nó, và giữa não bộ cùng thức. Những diễn giải của nhà Phật có thể đóng góp cho việc nghiên cứu khoa học, và ngược lại. Sự phối hợp này đã từng diễn ra rồi, và thêm nữa sẽ rất hữu ích.

 

Thể Trạng Trung ấm Thân

 

Tất cả chúng sinh được tái sinh như những con người đi qua thể trạng trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp sống tới. Trong thể trạng trung ấm này, thân thể chúng ta tiếp nhận một hình dáng giống với thân thể của chúng ta trong kiếp sống tới vào khoảng năm hay sáu tuổi (mặc dù một số người nói rằng điều này không nhất thiết như vậy). Khi đời sống trung ấm chấm dứt, cây cầu đến kiếp sống tới đã được vượt qua. Tiến trình này được tiến hành bởi trình độ vi tế nhất của tâm.

 

Tiến Trình Tái Sinh

 

Liên quan đến tái sinhthứcđi vào tử cung khi những yếu tố thụ tinh nam nữ trộn lẫn với nhau – được cung ứng không có gì sai trong tử cung hay với tinh trùng, và được cung ứng với tất cả những nhân tố thuận lợi chẳng hạn như nghiệp nối kết hiện diện. Tuy nhiênthứckhông nhất thiết phải nhập vào lúc ấy, khi nam nữ phối hợp, vì trong các luận điển của chúng tôi có những trường hợp diễn tinh dịch của người cha đi vào cơ quan của người mẹ ra một cách riêng lẻ với sự gia  hp. Dường như rằng hoặc là những yếu tố này đi với nhau bên trong hay, như thỉnh thoảng có những trường hợp ngày nay, bên ngoài tử cung trong ống nghiệm, thứcphải đi vào trong khi chúng trộn lẫn với nhau. Tuy thế, thật khó để có một sự giải thích cả quyết theo luận điển Phật giáo vì một số sách nói rằng sự thụ tinh xảy ra khi có sự khát dục mạnh mẽ của cả hai bên.

 

Chủ đề phức tạp này trở thành phức tạp hơn ở thời hiện đại. Hãy xem một thí dụ khi phôi thai được đông lạnh. Một khi sự nối kết đã được thực hiện từ kiếp sống quá khứ đến kiếp sống mới qua việc thụ tinh, thì chúng sinh mà phôi thai bị đông lạnh có phải chịu đau khổ vì lạnh không? Chính sự bắt đầu của thân thể đã được hình thành, và vì thế, theo sự giải thích của chúng ta, cơ quan cảm giác của thân thể  đã được hình thành sơ khởi (mặc dù cơ quan thị giác và những thứ khác thì chưa). Có phải có sự cảm giác thân thể ngay từ thời điểm sau khi thụ tinh hay không? Tôi chưa có một quyết định cho những điềm này; đây là chủ đề phải thảo luận nhiều hơn nữa.

 

Nếu chúng ta giả định rằng chúng sinh trong phôi thai đau khổ vì lạnh, thì điều này làm phát sinh vấn đề người đặt phôi thai vào tủ lạnh có bị nghiệp xấu cho hành vi ấy hay không. Điều tùy thuộc vào động cơ của người ấy. Chúng ta không thể nói rằng chỉ vì một chúng sinh khác chịu đựng khổ đau qua điều gì đó mà người khác liên hệ đến ta, thì ta sẽ gánh nghiệp xấu. Thí dụ, ngay cả những trường hợp thông thường một thai nhi ở trong tử cung bà mẹ chịu đựng đau khổ qua việc ở trong tử cung, nhưng bà mẹ không tích tập bất cứ nghiệp xấu nào. Tương tự thế, khi trẻ con được sinh ra, nếu đau khổ lần nữa, nhưng bà mẹ không tích tập bất cứ nghiệp xấu nào. (Nếu bà mẹ thật sự tích tập nghiệp xấu thì bà mẹ sinh nhiều con phải tích tập hàng khối nghiệp xấu, thì thật là vô lý!). Do vậy, động cơ của một người là chìa khóa quyết định loại nghiệp nào phải tích tập.

 

SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ BA: SỰ CHẤM DỨT CHÂN THẬT (DIỆT ĐẾ)

Vì những nhiễm ô của tâm thức chẳng hạn như tham dục, thù hận, ganh tỵ, và hung hăn căn cứ trên căn bản nhận thức sai lầm về bản chất của con người và đối tượng, cho nên tiến trình vượt thắng chúng đòi hỏi một giải pháp cho sự si mê ấy. Vấn đề trở thành việc nhổ gốc rể của si mê làm ra nguyên nhân của khổ đau như thế nào. Nó không thể là việc nhổ một cây gai qua phẩu thuật. Nhằm để vượt thắng nhận thức sai lầm này về bản chất của con người và sự vật, thì chúng ta phải thấu hiểu bản chất thật sự của chúng. Rồi thì, qua thiền quán tiếp tục, chúng ta trở thành quen thuộc với sự thậtgia tăng năng lực của tuệ trí để làm xói mòn những cảm xúc tiêu cực có gốc rể trong si mê.

 

Ở điểm này, thì một giải thích về tánh không sẽ lợi ích vì đây là những gì mà tuệ trí nhận ra bản chất của con người và sự vật (xem Chương Tám – Mười). Nhưng, tóm lại, sự kiện rằng những nhiễm ô chẳng hạn các cảm xúc phiền não có thể được tiêu trừ hoàn toàn là qua việc bản chất tâm thức vốn trong sáng, không bị nhiễm ô. Bản chất của nó là tinh khiết. Những phiền não được tịnh hóa qua thiền tập trên bản chất chân thật của cả tâm thức và tất cả những thứ khác. Việc tiêu trừ những phiền não này là sự thật cao quý thứ ba – sự chấm dứt chân thật, diệt đế - một thể trạng vượt khỏi khổ đau và các nguyên nhân của nó.

 

SỰ THẬT CAO QUÝ THỨ TƯ: CON ĐƯỜNG LẼ THẬT (ĐẠO ĐẾ)

 

Những con đường chân thật liên hệ đến ba phương diện rèn luyện vốn là chủ đề chính của quyển sách này – đạo đức, tập trung, và tuệ trí (giới – định – tuệ ). Sự thực tập tâm linh theo những con đường này đưa đến sự chấm dứt chân thật, đạt đến niết bàncuối cùng là Quả Phật.

-*-

Từ thời vô thỉ, chúng ta đã có một nhận thức vững chắc, hay ý thức, về “cái tôi”. “Cái tôi” này, hay tự ngã , bản chất và bẩm sinh muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau, và khát vọng này là vững chắc – nó là đúng đắnhợp lý. Kết quả là, tất cả chúng ta có quyền để đạt đến hạnh phúcxua đuổi khổ đau. Sự thật rằng khổ đau và hạnh phúc tự nó thay đổi từ thời khắc này đến thời khắc khác biểu thị rằng những trải nghiệm này tùy thuộc trên các nguyên nhânđiều kiện của nó. Nhằm để thoát khỏi khổ đau thì chúng ta cần loại trừ các nguyên nhânđiều kiện tức là các nhân duyên đem đến khổ đau và nhằm để đạt đến hạnh phúc thì chúng ta cần đỏi hỏi những nguyên nhânđiều kiện hay các nhân duyên của hạnh phúc.

 

Sự thật cao quý thứ nhất áp dụng đến các hiện tượng nhiễm ôchúng ta cần thoát khỏisự thật về khổ đau, là các tác độngnguyên nhân thật sự, vốn là những nguyên nhân. Hai sự thật cao quý cuối cùng là những thể trạng tinh khiếtchúng ta muốn đạt được – sự chấm dứt chân thật, vốn là các hệ quả, và những con đường chân thật, vốn là các nguyên nhân. Cung cách Đức Phật giảng dạy về Bốn Chân Lý Cao Quý, chúng bao hàm hai trình tự - một là khổ đau, thứ chúng ta muốn từ bỏ, và một là hạnh phúc, thứ chúng ta tìm cầu để tiếp nhận.

 

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

 

Đã nhận ra phạm vi của khổ đau, nghiên cứu về các nguyên nhân, hay nguồn gốc, và xác định rằng nguồn gốc của khổ đau là si mê về bản chất thật sự của con người và sự vật, vốn là đưa đến kết quả tham dục, thù hận, và v.v… Hãy nhận ra rằng khổ đau có thể được tiêu trừ, nó có thể bị loại bỏ trong không gian của thực tại. Hãy quán chiếu rằng sự chấm dứt chân thật này (diệt đế) đạt được qua sự thực hành về đạo đức, tập trung, và tuệ trí (giới – định – tuệ ) – là những con đường chân thật.

-*-

Ẩn Tâm lộ, Thursday, February 21, 2019

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14019)
Bố thí là hạnh đầu tiên theo lời Phật dạy hay còn gọi đầy đủ là hạnh buông xả. Bố thí là cho, biết cho,là trao tặng, là giúp đỡ sẻ chia hay mở lòng rộng lượng
(Xem: 10941)
Vào một kiếp xa xưa, Bồ-tát (tiền thân đức Phật) sanh làm một con chim cút, thủ lĩnh của hàng ngàn con chim cút sống ở trong rừng.
(Xem: 9725)
Cuộc đời đầy những bài học cho ta tu tập, nếu ta có đủ kiên trì.
(Xem: 18625)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ.
(Xem: 10326)
Hãy ngồi thẳng một cách thoải mái, không nghiêng về phía trước hay sau, trái hay phải. Hãy nhắm mắt lại, và hãy nghĩ với các niệm thiện lành.
(Xem: 10399)
Đức Phật dạy vạn pháp vô ngã, vô thường. Thân con người còn không thật có (vô ngã, do duyên sinh), huống chi là tài sản của cải là vật ngoài thân.
(Xem: 11602)
“Chỉ là nắm tro” không phải là một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một thực tế. Thực tế ấy tôi đã chạm mắt, đã sờ mó được.
(Xem: 9988)
Vì là cá nhân mỗi người thụ hưởng hoan hỉ hay đớn đau, tạo rắc rối và tích tập nghiệp báo – tất cả sự ồn náo và rối rắm được làm ra bởi tự ngã
(Xem: 11101)
Sự quan tâm giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên là một nghĩa cử cao đẹp, thể hiện tính đạo đức nhân văn cao cả mà chúng ta ai cũng có thể làm được.
(Xem: 8761)
Phật dạy, nếu người có hiểu biết chân chính sẽ tôn trọng chân lý, khi đưa ra một ý nghĩ gì đều nói “đây là suy nghĩ của chúng tôi”,
(Xem: 12535)
Chúng ta đều biết, đạo Phậttrung đạo. Đức Phật cũng nhờ tránh xa hai cực đoan dục lạckhổ hạnhthành tựu đạo quả.
(Xem: 10317)
Người ta khó chấp nhận việc đột tử của người thân là vì họ vừa có mặt hôm nay ở đây, rồi bỗng ngày hôm sau không có mặt.
(Xem: 10921)
Nguyện cầu Tam Bảomười phương chư Phật chứng giám cho lòng thành của chúng em; cầu mong hương linh Anh được an lạc nơi tịnh thổ.
(Xem: 17088)
Chúng ta đừng nên hứa một điều gì với ai khi đang vui. Bởi vì lời hứa ấy có thể làm cho người khác thất vọng, vì ta hứa mà không làm được.
(Xem: 10514)
Tất cả mọi người đều biết khổ - nhưng không thật sự hiểu khổ. Nếu thực sự hiểu khổ thì chúng ta đã có thể chấm dứt khổ.
(Xem: 10060)
Sẻ chia, cho đi một phần mình đang có, là hạnh tu phổ biến của hàng Phật tử. Nhờ cho đi, không cố nắm giữ mà thành tựu phước báo đủ đầy, an vui trong hiện tạivị lai.
(Xem: 11244)
Con người ta có nhiều cái sợ, như sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ vợ hay chồng bỏ, sợ thất nghiệp, sợ nghèo, sợ đói, sợ nhiều thứ...Trong những cái sợ này có cả sợ ma.
(Xem: 16155)
Tôi giống như đang đứng ở khúc cuối của con đường cùng, sau hai mươi sống trong tu viện. Tôi đã cống hiến bản thân mình, siêng năng tu tập, cùng tuân thủ theo giới luật của tu viện.
(Xem: 12404)
Học cách hiểu thất bại thế nào là một kỹ năng ít được nói đến, nhưng lại rất cần trong cuộc sống.
(Xem: 16311)
Dưới ánh sáng tỉnh thức, bạn sẽ biết rõ mình đang làm gì, đang đi đâu và về đâu. Và rồi bạn sẽ tự vén lên những bức màn bí ẩn của thân phận và cuộc sống bằng chính năng lực tỉnh thức của mình.
(Xem: 24721)
Buông bỏ là một trong những bài học đầu tiên chúng tôi được Hòa thượng Ân sư dạy. Tiêu đề Ngài dạy chung cho tất cả anh em là: “Các chú phải buông bỏ”.
(Xem: 9013)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả.
(Xem: 11513)
An là an tịnh nội tâm, còn Cư là kỳ hạn cư trú trong suốt một thời gian nhất định nào đó, mà theo giới luật là ba tháng.
(Xem: 9679)
Khi đến tu viện, các nhà sư và các sư cô mới vào tu, thường hỏi vị sư trụ trì hướng dẫn cách thực hành Con Đường Giải Thoát.
(Xem: 11298)
Quên cái danh thì tự khắc sẽ được an vui. Quên mình đi thì kẻ khác ắt có hạnh phúc. Vui với thành công của người thì niềm vui tăng mãi. Thương yêu tất cả thì lòng hóa vô biên.
(Xem: 9281)
Tôi chẳng làm gì cả. Sự-nhận-biết-về-cái-tôi của tôi đã bị quét sạch đi, từ ngày rất xa xưa rồi. Giờ đây, không còn "cái Tôi" để làm gì cả.
(Xem: 15306)
Tâm của con cũng như vậy. Khi rối loạn, hãy để yên. Rồi chờ một lát. Rối loạn tự ngừng lại. Con không cần gắng sức. Bình yên sẽ đến. Mà không cần làm gì cả.
(Xem: 10491)
Nghe chuông phiền não nhẹ lâng lâng Bồ đề thêm lớn Tuệ sáng ngần Xa rời địa ngục qua hầm lửa Nguyện thành như Phật độ chúng sanh.
(Xem: 14577)
Lễ bái là một pháp tu phổ biến trong đạo Phật. Thường thì chúng ta lễ Phật, các vị Bồ-tát, chư vị Tổ sư để thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn...
(Xem: 10508)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc.
(Xem: 11231)
Trong những năm gần đây, tình hình bão lũ, động đất, sóng thần xảy ra khắp mọi nơi với cường độ càng ngày càng mạnh có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của rất nhiều người và động vật.
(Xem: 8541)
Trong đạo Phật nguyên thủy Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên để chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người.
(Xem: 9550)
Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của bản thângia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy.
(Xem: 9387)
Theo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật...
(Xem: 10322)
Rất lạ là có nhiều người không biết thương chính bản thân. Có lẽ do họ nghĩ rằng thương yêu chính bản thân là điều dễ làm nhất trên đời nầy, vì ai cũng lo cho mình là trước nhất.
(Xem: 9216)
Mùa mưa đến, chư Tăng Ni đều y theo lời Phật thực hành an cư. Đạo tràng an cư tu học thanh tịnh tất yếu nhờ ơn ngoại hộ của các thí chủ
(Xem: 9922)
Đức Phật dạy rằng phá thai chính là lấy đi mạng sống của một con người, đây là một lỗi lầm rất nghiêm trọng.
(Xem: 11875)
Lý tưởng Bồ tát đạo là một danh từ chung cho những ai có tâm xã kỷ vị tha (quên mình vì người).
(Xem: 10080)
Ta chỉ cần trở về với sự tĩnh lặng trong sáng sẵn có, buông bỏ những mong cầu của mình, và mở rộng lòng ra tiếp nhận những gì xảy ra với một tình thương.
(Xem: 9136)
Dòng sinh tử, tử sinh được gọi là Luân Hồi. Cái bánh xe quay vòng vòng chẳng tìm ra đâu là khởi điểm, đâu là dứt điểm.
(Xem: 10589)
Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Xem: 14061)
Theo Phật học thì “hãy xem lá đa rụng ở vườn chùa như là những phiền não tham lam, sân hận, si mê nơi chính vườn tâm mình, quét lá và rác rưởi cũng chính là quét đi những cấu bẩn của tự tâm...
(Xem: 8559)
Người tu Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù tu theo bất cứ pháp môn nào thì tâm tịnh và trí sáng là mục tiêu quan trọng cần phải đạt được trong đời sống tu hành.
(Xem: 10088)
Đại từ Đại bi thương chúng sanh, Đại hỷ Đại xả cứu muôn loài...
(Xem: 8807)
Đời sống của chúng ta là một chuỗi dài nhân duyên được hỗn hợp, bao gồm cả tốt lẫn xấu. Nếu chúng ta chỉ yêu thích cái tốt, ghét cái xấu, thì đời sống tinh thần của mình sẽ trào dâng cảm xúc vui buồn mà thành ra có khổ đau nhiều hơn là hạnh phúc.
(Xem: 8675)
Tục ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Câu nói này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi vì...
(Xem: 28208)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới.
(Xem: 15835)
Trời thu lạnh nhưng đạo tình ấm ápPhó hội về Quảng Đức để tuyên dươngĐại Hội năm (V) Phật Giáo Việt lệ thườngCứ bốn năm có một lần khoáng đại…
(Xem: 9637)
Thưa mẹ, mẹ có biết không, thời gian, không gian làm cho con run sợ và phẫn uất. Đó là những biên giới đã phân chia tất cả, đã ngăn cách tất cả và làm cho con người lẻ loi và cuộc sống bơ vơ.
(Xem: 11359)
Sự hiện hữu của con trong cuộc đời là niềm hạnh phúc lớn lao của bố mẹ. Bởi tình yêu thương vô hạn, bố mẹ sẵn lòng làm tất cả để dành cho con những gì tốt đẹp nhất.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant