Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tránh Làm Tổn Hại

28 Tháng Ba 201917:52(Xem: 4234)
Tránh Làm Tổn Hại
TRÁNH LÀM TỔN HẠI
 
Nguyên bản: Refraining from Harm
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Wednesday, February 20, 2019

 

-*-

Các Phật tử tiếp nhận thệ nguyện đạo đức (giới) trong phạm vi thứ nhất của quy y – trong Phật bảo, trong những thể trạng của thực chứng, và trong cộng đồng tâm linh. Quy y là nền tảng cho việc thực hành đạo đức. Đức Phật dạy chúng ta tìm nơi nương tựa thế nào từ khổ đau và giới hạn, nhưng nơi ẩn náo tốt nhất, cội nguồn của sự bảo vệ, được thấy trong những thể trạng của sự thực chứng được thành tựu qua việc  thực hành đạo đức, thiền tập trung, và tuệ trí (giới – định – tuệ).

 

Kinh điển Phật giáo giới thiệu rằng chúng ta che dấu những phẩm chất và những thành tựu tốt đẹp của chúng ta như một ngọn đèn bên trong một lục bình. Chúng ta không nên quảng bá nó ngoại trừ có một mục tiêu lớn lao trong việc làm như vậy. Nó được xem là một vi phạm nhỏ với thệ nguyện xuất gia nếu vị tu sĩ đạt được thể trạng giải thoát và nói với người nào đó rằng, “tôi đã thành tựu sự giải thoát.” Đây là trường hợp, thật khó khăn để quyết định thể trạng nào của kinh nghiệm nội tại mà một người khác đã đạt được. Tôi đã có cơ hội gặp vài người đã đạt được những sự phát triển tâm linh ngoại hạng. Đã có một tu sĩ vốn không học hỏi nhiều lắm từ tu viện Namgyel của tôi, đến Ấn Độ khoảng 1980. Vì chúng tôi biết nhau, cho nên chúng tôi ngẫu nhiên trò chuyện với nhau vào một ngày nọ. Ông nói với tôi rằng khi ông ở trong trại lao động khổ sai của Trung Cộng gần 18 năm, ông đã đối diện với nguy hiểm trong vài trường hợp. Tôi nghĩ rằng ông liên hệ đến việc đe dọa tính mạng của ông. Nhưng khi tôi hỏi, “Hiểm họa gì?” ông trả lời, “Đánh mất lòng từ bi đối với người Trung Hoa”. Ông xem đó là hiểm họa! Hầu hết mọi người chúng ta sẽ cảm thấy tự hào khi nói với người khác về vấn đề chúng ta đã phải căm giận thế nào, giống như chúng ta là một loại anh hùng nào đó.

 

Một lạt ma từ truyền thống Drukpa Kagyu và tôi rất gần gũi. Chúng tôi thường gặp nhau và nói chuyện vui, đùa cợt với nhau thế này thế nọ. Trong một trường hợp, tôi đã hỏi ông về kinh nghiệm tâm linh. Ông đã nói với tôi rằng khi còn trẻ, ông đang ở với thầy của ông, người bảo ông tiến hành việc thực tập dự bị, lễ một trăm nghìn lạy (100.000) với Đức Phật, giáo lýcộng đồng tâm linh. Vào buổi sáng sớm và chiều tối, ông phải lạy nằm sấp xuống cả thân mình trên sàn gỗ thấp. Thầy của ông đang thiền tọa trong bóng tối của một phòng kế bên; để dối vị thầy nghĩ rằng ông đang lễ lạy phủ phục cho nên ông đã gõ nhẹ những ngón tay vào sàn gỗ. Những năm sau đó, sau khi thầy ông đã qua đời, ông tu tập trong một hang động, khi quán tưởng về sự ân cần to lớn của thầy mình sau hàng năm rèn luyện ông, và ông đã lau nước mắt không ngớt. Ông hầu như kiệt sức, nhưng rồi thì ông đã trải nghiệm linh quang, là thứ ông vẫn tiếp tục thực hành. Tiếp theo đó, sau khi thành công các sự thực hành thiền quán, thỉnh thoảng ông đã nhớ lại những phản chiếu sinh động quá khứ như trước mắt ông.

 

Đây là những chuyện  trực tiếp đầy cảm hứng đối với tôi. Rõ ràng có những hành giả ngày nay đang hướng đến Quả Phật. Việc gặp gở những người này làm gia tăng sự ngưỡng mộ và quyết tâm của chúng ta và qua họ giáo lý trở thành sống động. Trong cách này cộng đồng tâm linh cung ứng những kiểu mẫu cho các hành giả tham chiếu, vốn có thể hướng chúng ta đến sự nương tựa.

 

Ba thứ này – Phật bảo, những thể trạng thực chứnggiáo lý giảng dạy về chúng (Pháp bảo), và cộng đồng tâm linh (Tăng bảo) – là những nhân tố bên ngoài chúng ta vốn có năng lực to lớn hơn để chấm dứt khổ đau hơn là chúng ta đang làm hiện tại. Tuy nhiên, một Phật tử không thỉnh cầu tam bảo ban cho hạnh phúc. Đúng hơn, hạnh phúc đến từ việc đưa giáo lý vào thực tập. Đức Phật dạy chúng ta sự nương tựa thật sự - thực tập giáo lý như thế nào – nhưng trách nhiệm chính là ở sự thực hiện của chính chúng ta. Để tạo dựng nền tảng cho một thể trạng tâm linh cuối cùng không có khổ đau và sự giới hạn thì chúng ta cần dấn thân trong việc thực tập sau đây:

 

1-   Xác định mười điều bất thiện (xem chương hai)

2-   Xác định mười điều thiện (vốn đối lập với những điều bất thiện ấy)

3-   Từ bỏ những mười điều bất thiệntiếp nhận mười điều thiện.

 

NHỮNG TRÌNH ĐỘ ĐẠO ĐỨC CỦA GIẢI THOÁT CÁ NHÂN

con ngườinăng lực đa dạng trong việc giữ gìn những thệ nguyện, cho nên Đức Phật diễn tả các trình độ khác nhau của việc thực hành đạo đức. Trong đạo đức của giải thoát cá nhân, có:

 

-       Những người sống đời sống tại gia đình.

-       Những người đã từ bỏ đời sống gia đình để trở thành một tu sĩ nam hay nữ.

 

Nếu chúng ta có khả năng duy trì sự giản dị trong đời sống, thì ta có thể lìa bỏ cuộc sống gia đìnhtiếp nhận những thệ nguyện của tu sĩ. Nếu ta không thể duy trì cuộc sống giản dị thanh bạch  nhưng có thể giữ gìn những thệ nguyện, thì ta có thể tiếp nhận những thệ nguyện nào đó của cư sĩ cho cả đời, hay những thứ khác chỉ trong một ngày.

 

LỢI ÍCH CỦA ĐẠO ĐỨC

Chúng ta thấy nhiều sự tương đồng trong đời sống tu sĩ trong tất cả mọi tôn giáo – giản dị, dâng hiến qua cầu nguyện hay thiền tập, và  phục vụ người khác. Những tu sĩ Ki tô giáo đặc biệt với chí nguyện phục vụ trong các lãnh vực giáo dục, sức khỏe, cùng phúc lợi, và tu sĩ Phật giáo phải học hỏi nhiều từ những truyền thống này của Ki tô giáo.

 

Việc thực hành đạo đức của giải thoát cá nhântu sĩ hay cư sĩ, đưa đến toại nguyện. Thí dụ, các tu sĩ tuân thủ với một sự kiêng khem giới hạn – một bữa điểm tâm nhỏ, và rồi bữa trưa, không có gì sau đấy. Họ không có quyền đòi hỏi, “Tôi muốn thức ăn này hay nọ.” Bất cứ thứ gì họ được cúng dường trong những buổi khất thực hàng ngày, họ phải chấp nhận. Vì tu sĩ Phật giáo không nhất thiết  phải ăn chay; cho nên bất cứ thứ gì họ nhận được, họ sẽ ăn. Đó là việc rèn luyện toại nguyện về thực phẩm. Nó giảm bớt băn khoăn về việc nhận được thực phẩm này hay nọ. Người cư sĩ có thể bắt chước sự thực hành này bằng việc không nhấn mạnh vào những thực phẩm đặc biệt. Ngay cả khi giàu có, ta thật sự không thể tiêu thụ nhiều hơn người nghèo, ngoại trừ sự hao tổn của chính bạn. Cả người giàu và nghèo có cùng một bao tử.

 

Liên quan đến áo quần, tu sĩ nam nữ chỉ có một bộ y áo. Để có hơn một bộ, người tu sĩ ấy phải có sự gia hộ của một tu sĩ khác, giữ trong lòng rằng bộ y áo có thêm ấy cũng thuộc về một người khác. Chúng tôi không thể ăn mặc những áo quần đắc tiền. Trước khi quân Trung Cộng xâm lược, tăng ni đôi khi mặc những áo quần quý giá, vốn đưa đến sự mua chuộc và tự lừa dối. (Trong một phương diện, người Trung Cộng đã tử tế với chúng tôi bằng việc trừ khử những sự hư hỏng này!) Việc giới hạn trong ăn mặc là sự thực hành về toại nguyện về áo quần. Người cư sĩ có thể tiếp nhận một sự thực tập tương tự qua việc tiết độ trong trang phục. Nó cũng đúng với việc trang sức. Việc đeo hơn một chiếc nhẫn trong mỗi ngón tay thì đúng là quá nhiều! Thật sai lầm khi nghĩ rằng thật đáng giá khi tiêu dùng nhiều hơn với thực phẩm, áo quần, và trang sức chỉ vì ta có nhiều tiền. Đúng hơn, hãy dành nhiều hơn cho sức khỏegiáo dục cho người nghèo. Đây không phải là sự thúc ép của chủ nghĩa xã hội nhưng là sự tự nguyện của từ bi.

 

Cũng thế thật thiết yếu cho tu sĩ hài lòng với nơi cư ngụ tương xứng. Một căn nhà trau chuốt là không được phép. Đây là được gọi là sự toại nguyện về nơi ở. Người cư sĩ có thể tiếp nhận sự thực tập này bằng việc giảm thiểu việc đòi hỏi không ngừng nghỉ cho một căn nhà tốt đẹp hơn và cho bàn ghế cùng các sự trang trí trong nó.

 

Hãy thẩm tra thái độ của ta đối với thực phẩm, áo quần, và nơi cư trú. Bằng việc giảm thiểu sự mong đợi thì ta sẽ khuyến khích sự toại nguyện. Năng lượng phụ trội nếu có nên dùng để hiến dâng cho việc thiền tập và để đạt đến sự chấm dứt các vấn nạn, tương ứng với sự thật cao quý thứ tư và thứ ba. Trong cách này, sự toại nguyệncăn bản, và hành động đưa đến được gọi là thích thiền tậptừ bỏ.

 

Chúng ta nên toại nguyện trong những lãnh vực vật chất, cho những ai bị ràng buộc với sự giới hạn, nhưng không liên quan với tâm linh, vốn có thể được mở rộng đến vô giới hạn. Cho dù đúng rằng một con người không thỏa mãn thì dù làm chủ cả thế giới này có thể muốn có một trung tâm du lịch ở trên mặt trăng, thì đời sống của người ấy vẫn bị giới hạn, ngay cả tất cả những gì có thể làm chủ được cũng là giới hạn.Tốt hơntoại nguyện ngay từ lúc bắt đầu. Tuy nhiên, với việc quan tâm đến lòng từ bi và vị tha thì không giới hạn, và vì thế chúng ta không nên thỏa  mãn với mức độ mà chúng ta có. Chúng ta đúng là mâu thuẩn; trong lãnh vực tâm linh thì chúng ta thỏa mãn với khối lượng thực tập và tiến trình nhẹ nhàng vậy là đủ, nhưng về vật chất chúng ta luôn luôn muốn nữa và nữa. Phải nên là cách ngược lại. Mọi người cần thực hành điều này, cho dù là cư sĩ hay tu sĩ.

 

Việc thực hành đạo đức của sự giải thoát cá nhân cũng hữu ích trong việc gia tăng chánh niệmtự quán chiếu. Nếu một tu sĩ sắp có chí nguyện hành động nào đó ngay cả trong giấc mộng, người ấy nhận rõ “Tôi là một tăng/ni; Tôi không nên hành động như vậy.” Chánh niệm đến từ một sự tỉnh thức phát triển cao độ  của các hành vi thân thểlời nói, được mang vào trong giấc mộng. Nếu chúng ta chú ý thật sâu sắc tới hạnh kiểm của chúng ta khi ăn uống, đến và đi, đứng và ngồi, và v.v… rồi thì một điều kiện mạnh mẽ của chánh niệm sẽ hiển hiện.

 

Sự thực hành đạo đức giải thoát cá nhân cũng nuôi lớn bao dungnhẫn nhục. Đức Phật nói rằng nhẫn nhụchình thức cao nhất của sa môn, và qua nó ta có thể đạt đến niết bàn. Đối với tăng ni, có bốn phẩm chất nhẫn nhụcbao dung được duy trì:

 

- Nếu người nào đó đẩy ta vòng quanh, ta nên bao dungnhẫn nhục

- Nếu người nào đó biểu lộ sự sân hận đối với ta, ta không nên đáp lại với sân hận

- Nếu người nào đó đánh ta, ta không nên đánh trả lại

- Nếu người nào đó lúng túngxúc phạm ta, ta không nên đáp lại

 

Những sự thực hành này làm gia tăng nhẫn nhục. Một người đã rời bỏ đời sống thế tục nhưng làm tổn hại người khác là không dấn thân trong một hành vi thích đáng. Có những câu chuyện về những tu sĩTây Tạng ngay cả đi vào chiến tranh! Họ đã tự đưa mình vào trong chiến trận mặc dù giáo lý nhà Phật đã lặp đi lặp lại rằng làm tổn hại bất cứ người nào khác chắc chắn là không đạo đức cho một vị tu sĩ nam hay nữ.

 

Sự thực hành tâm linh không chỉ về những thứ bên ngoài – thực phẩm, áo quần, hay những thứ như vậy. Sự thực hành tâm linh xảy trong tâm chúng ta, trong trái tim chúng ta. “Sự thay đổi chân thật là ở bên trong; lìa bên ngoài như nó là”. Nếu thái độ của chúng ta phản chiếu một cách chân thật sự trau dồi tâm thức và con tim, thế là tốt. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ làm một màn biểu diễn về sự thành tựu tâm linh nhằm để có tiền, thí dụ thế, đó là đạo đức giả.

 

Thực hành Đạo Phật có nghĩa là chuyển hóa thái độ của ta. Những sự thực hành của tu sĩ có thể được phối hợp vào trong đời sống của cư sĩ qua một nguyện ước mạnh mẽ, có ý thức để tránh khỏi việc làm tổn hại những người khác, thân thể hay lời nói. Điều này đòi hỏi nhẫn nhục vốn sẽ chịu đựng sự tấn công bằng thân thể hay lời nói.

 

Một sự tiếp cận dần dầntốt hơn nhiều so với việc cố gắng nhảy quá cao quá nhanh; bằng trái lại, sẽ có một hiểm họa và nguy cơ lớn. Trong thời gian này, hãy cống  hiến cho xã hộithực hành lời Phật dạy. Một khi ta đạt đến một giai tầng nào đó của kinh nghiệm thì chúng ta có thể  thực hành với một năng lực lớn hơn nếu ta trở thành một tu sĩ. Những sự thực hành này thích hợp với nhau từng bước một.

 

Thông thường sự khuyên bảo của tôi cho những người mới bắt đầu là nhẫn nhục; có ít sự mong đợi về chính mình hơn. Quan trọng nhất hãy là một công dân trung thực, một thành viên tốt của cộng đồng nhân loại. Cho dù ta thấu hiểu những ý tưởng sâu sắc hay không thì điều quan trọng hãy là một con người thiện lương bất cứ ta ở nơi nào ngay bây giờ. Chúng ta đừng quên lãng một mục tiêu lớn hơn vì lợi ích của một thứ nhỏ hơn. Hãy xem cả hiện tại và về lâu dài, trong cùng phương cách rằng sự thành tựu kinh tế tạm thời nên được lưu tâm trong mối quan hệ với những nhu cầu môi trường lâu dài.

 

-*-

Tôi muốn nói rằng tinh hoa của lời Phật dạy có thể được thấy hai điều:

 

Nếu có thể, ta nên giúp đở người khác.

Nếu không thể làm thế, thì tối thiểu ta không nên làm tổn hại.

 

Tránh việc làm tổn hại người khác là tinh hoa của giai tầng khởi đầu trong việc sống với giáo huấn về đạo đức.

 

-*-

TOÁT YẾU THỰC HÀNH HÀNG NGÀY

1-   Hãy chú ý việc ta dính mắc với thức ăn, áo quần, và nơi ở, và tiếp nhận sự thực hành tu sĩ với sự toại nguyện cho đời sống cư sĩ. Hãy hài lòng với những thực phẩm, áo quần, và nơi ở tương xứng. Hãy sử dụng thời gian rỗi rảnh cho thiền tập vì thế ta có thể vượt thắng nhiều vấn nạn hơn.

2-   Hãy phát triển một sự khao khát mạnh mẽ để tránh làm tổn hại người khác cho dù bằng thân thể hay lời nói, bất chấp ta bị bối rối, xúc phạm, xỉ vả, xô đẩy, hay đánh đập.

-*-

Ẩn Tâm Lộ, Sunday, February 24, 2019

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2476)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2297)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2615)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2388)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3196)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2265)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2358)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2485)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2436)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2492)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2150)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2514)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3001)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2603)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2651)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2923)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2504)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2541)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3997)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2750)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2994)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3271)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2260)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2474)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2759)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2953)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2828)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2583)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2592)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3154)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2564)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2244)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2352)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2454)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2557)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2645)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2688)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3215)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2520)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2103)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2555)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2020)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2780)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2863)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2890)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2678)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2463)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2748)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2324)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3246)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant