Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Của Sự Giàu Có Trong Phật Giáo

06 Tháng Tư 201903:23(Xem: 6227)
Ý Nghĩa Của Sự Giàu Có Trong Phật Giáo

Ý Nghĩa Của Sự Giàu Có Trong Phật Giáo

P. A. Payautto
Lâm Hạnh Nhiên

 
Ý Nghĩa Của Sự Giàu Có Trong Phật Giáo

Mặc dù người ta thường cho rằng Phật giáotôn giáo khổ hạnh, thực ra sự khổ hạnh đã được Đức Phật thực hành rồi từ bỏ trước khi Ngài đạt tới giác ngộ. Trong phạm viliên quan đến Phật giáo, ý nghĩa của từ ‘khổ hạnh’ khá mơ hổ và không nên sử dụng mà không có sự dè dặt. Từ ‘nghèo’ cũng thường bị hiểu lầm. Đúng hơn, người Phật tử ít ham muốn và biết đủ. Sự nghèo khó không phải là điều được Phật giáo ca ngợi. Vì như Đức Phật đã nói, “Đối với những người chủ gia đình trong cuộc đời này, nghèo là một nỗi khổ”. (Kinh bộ Tăng chi) và “Điều tồi tệ trong cuộc sống là sự nghèo khó và nợ nần” (Kinh bộ Tăng chi).

Thực sự, một số người đạt được sự giàu có lớn còn thường được kinh điển nguyên thủy ca ngợi và khuyên khích, cho thấy sự giàu có là một điều được phép theo đuổi trong Phật giáo. Trong số những đệ tử thế tục của Đức Phật, những người thường được nhắc đến, những người có những đóng góp quan trọng cho giáo đoàn và những người thường được ca ngợi lại nằm trong số những người có của cải lớn, chẳng hạn ngài Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ngay cả đối với hàng Tăng sĩ, những người không được phép theo đuổi sự tích tụ của cải, thì người thường xuyên nhận được phẩm vật cúng dường cũng được coi là người có phẩm hạnh cao. Chẳng hạn, Tỳ-kheo Sivali đã từng được Đức Phật khen ngợi là bậc nhất trong số những người tiếp nhận nhiều phẩm vật cúng dường.Tuy nhiên, những nhận xét này cần phải được làm rõ nghĩa. Kinh điển cho thấy sự giàu có không phải là đối tượng của sự khen ngợi hay sự chê trách, mà chính cách làm giàu và cách sử dụng của cải của một người mới là điều chịu sự phê bình. Như vừa nêu trên, ngay cả đối với các Tỳ-kheo, việc nhận được tài sản đúng pháp không hề bị phê phán mà việc thiếu thốn cũng không phải là việc được khen ngợi. Những tính chất đáng bị chê trách là sự tham lợi, sự keo kiệt, sự mê đắm, sự vướng mắc và việc tích trữ của cải. Việc tiếp nhận của cải là điều được phép nếu điều đó có ích cho việc thực hành chánh đạo hoặc đem lại lợi ích cho các thành viên cùa Tăng già.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các Tỳ- kheo được khuyến khích có tài sản riêng. Theo giới luật và môn quy, lợi dưỡng được coi là chính đáng nếu của cải ấy thuộc về Tăng chúng, nhưng khi một vị Tỳ-kheo lại có nhiều của cải riêng thì đó chính là bằng chứng về sự tham lam của vị ấy và vị ấy không thể được coi là người sống theo phạm hạnh. Việc thực hành đúng pháp đối với các vị Tỳ-kheo là không được quyền sở hữu bất cứ những gì khác hơn các vật cần dùng cho cuộc sống tu trì của họ. Ở đây, vấn đề không phải là một cá nhân nào giàu hay nghèo, mà ở chỗ các vị ấy ít phải lo lắng đến cá nhân mình, dễ dàng đi đến bất kỳ nơi nào, có tinh thần biết đủ và ít ham muốn, và vì cuộc sống của một vị Tỳ-kheo là phụ thuộc vào sự cúng dường của người khác, vị ấy phải làm cho mình trở thành người dễ được giúp đỡ. Trong tình trạng sẵn sàng chuyển chỗ ở và hầu như không phải lo lắng gì về cá nhân, các Tỳ-kheo có khả năng dành hết năng lựcthời gian của mình cho sự nghiệp tu hành của họ, cho dù đó là để hoàn thiện bản thân, đạt tới thánh quả, hay là để đóng góp những điều tốt đẹp cho xã hội. “Tỳ-kheo hài lòng với ba y đủ để che thân và với thực phẩm xin được vừa đủ nuôi thân. Bất kỳ khi nào vị Tỳ-kheo ấy cần phải đi, vị ấy chỉ cần mang theo mình ba y một bát, hệt như con chim được đỡ bằng đôi cánh, bất kỳ khi nào muốn bay, con chim chỉ bay với sức nặng của đôi cánh phải mang theo” (Kinh bộ Tăng chi).

Như vậy, chính là sự biết đủ và ít ham muốn cùng với nỗ lực phát triển thiện hạnhgiải trừ cấu uế là điều được ca ngợi. Ngay cả sự biết đủ và ít ham muốn cũng phải được xác định rõ, nghĩa là những phẩm chất ấy phải đi kèm với tinh tấnchuyên cần chứ không thể vì thế mà kiêu mạngiải đãi. Vị Tỳ-kheo tự hài lòng với bất kỳ những gì mình có để vị ấy có thể dành nhiều thời giannăng lực hơn cho việc phát triển bản thân cũng như đem lại lợi lạc cho người khác. Nói khác đi, việc một vị Tỳ-kheo có được nhiều của cải có thể là một điều tốt, nhưng vị Tỳ-kheo ấy không được phép giành lấy làm của riêng hoặc tích trữ cho riêng mình. Có thể tốt hơn nữa là một vị Tỳ-kheo dành được nhiều lợi dưỡng hơn để rồi cho đi nhiều hơn. “Lại nữa, này các Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo ấy hài lòng với tất cả những gì cần thiết -là vị ấy có được, đó là ba y, thực phẩm xin được, chỗ trú ngụ và thuốc men. Lại nữa, này các Tỳ-kheo, vị ấy liên tục tinh tấn trừ diệt mọi ác hạnhliên tục tinh tấn trong việc thực hành thiện hạnh mà không bao giờ bỏ bê bổn phận của mình”(Kinh Trường bộ hoặc kinh bộ Tăng chi) và “Một con đường dẫn tới sự giàu có, con đường kia dẫn tới niết- bàn. Nếu một Tỳ-kheo, là một vị thánh đệ tử của Đức Phật, đã hiểu được điều ấy, vị này sẽ không khao khát sự kính trọng, mà sẽ sống ẩn cư” (Kinh Trường bộ).

Về phần các cư sĩ, như đã chỉ ra ở trên, không bao giờ sự nghèo khó lại được khuyến khích. Ngược lại, nhiều đoạn kinh văn còn cổ vũ người đệ tử thế tục của Đức Phật nên tìm kiếm và gom góp sự giàu thịnh theo đúng pháp.Trong số những quả báo thiện của các thiện hạnh, một điều quan trọng là được sinh trưởng trong sự giàu có. Điều bị chê trách là sự giàu có dính liền với những biện pháp bất chính.

Cũng đáng bị chê trách là những kẻ sau khi xây dựng được tài sản lại trở thành nô lệ của khối tài sản ấy và đau khổ vì sự giàu có của mình. Không kém tệ hại hơn và cũng đáng bị chê trách như việc làm giàu bất chính là sự tích tụ của cải vật chất nhờ vào tính bủn xỉn keo kiệt, không dám tiêu pha cho lợi íchhạnh phúc của chính mình và của những người phụ thuộc vào mình hoặc cho lợi íchhạnh phúc của tha nhân. Cũng vậy, việc phung phí tài sản một cách rồ dại hay xa hoa, hoặc sử dụng sự giàu có của mình để gây đau khổ cho người khác cũng là điều bị chỉ trích“Này các Tỳ-kheo, nếu người nào biết, như chính ta biết rõ, hoa trái của việc chia sẻ lợi dưỡng, người ấy sẽ không hưởng việc sử dụng những lợi dưỡng ấy mà không chia sẻ chúng, người ấy cũng không để sự đồi bại của tính keo kiệt ám ảnh tâm mình. Ngay cà khi đó là một miếng ăn cuối cùng, một mẩu thực phẩm cuối cùng, người ấy cũng không hưởng việc sử dụng nó mà không chia sẻ với người khác nếu như có người nào khác để có thể chia sẻ” (Kinh Tiểu bộ).

Những người giàu có công chínhđáng khen là những người làm giàu bằng những cách thức chính đángsử dụng sự giàu có ấy cho sự tốt đẹphạnh phúc của mình cũng như của những người khác. Cho nên nhiều vị đệ tử thế tục của Đức Phật, là những người giàu có, đã sử dụng phẩn lớn nếu không nói là hấu hết tài sản của họ để giúp đỡ Tăng đoàn và giúp cho người khác bớt nghèo khó, bớt đau khổ. Chẳng hạn, trong các quyển Luận và trong kinh Pháp cú đểu có nói đến việc Cư sĩ Cấp Cô Độc đã dành phẩn lớn tài sản của mình để cúng dường Tãng đoàn và phát chẩn cho hàng trăm người nghèo mỗi ngày.Tất nhiên, trong một xã hội lý tưởng, dưới sự cai trị của các nhà cai trị có năng lựccông chính, hoặc dưới sự quản trị của một chính phủ công chính và có hiệu năng, sẽ không có người nghèo, vì ít nhất, mọi người đều có thể tự lo được cho bản thân mình, và các vị Tỳ-kheo là cộng đồng duy nhất tách biệt khỏi xã hội được cung dưỡng bởi tài sản thặng dư của những người thế tục.

Như vậy, hoàn toàn trái ngược với hình ảnh thông thường của Phật giáo như một tôn giáo khắc khổ, giáo pháp của Phật giáo vẵn công nhận ý nghĩa của tiện nghi vật chất trong việc tạodựng hạnh phúc.Tuy nhiên, Phật giáo nhắm tới việc phát triển mọi tiềm năng của con người, và trong chiều hướng đó, sự giàu có về vật chất vẫn được coi là thứ yếu. Hoạt động kinh tế sinh lợi mà đem lại hạnh phúc thì có thể đóng góp cho sự phát triển của con người, nhưng việc tích tụ của cải chỉ để có nhiều của cải thì chẳng có ích gì cho xã hội.

Lâm Hạnh Nhiên dịch Nguồn: Buddhist Economics,

A Middle Way for the Market Place

Payautto là một học giả Phật giáo nổi tiếng người Thái. Mới đây, Quốc vương Thái Lan đã phong ông là Tam tạng Pháp sư. Ông là một trong những người có công vạch kế hoạch dịch toàn bộ kinh điển Phật giáo từ tiếng Thái sang tiếng Anh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 965)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1255)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant