Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

10 Tháng Tư 201903:52(Xem: 5818)
Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

CÓ THỂ TU THEO NGÀI PHỔ HIỀN ĐƯỢC KHÔNG?

Thiện Quả Đào Văn Bình

duc pho hien


Trong pháp hội Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền Bồ Tát sau khi khen ngợi công đức thù thắng của Phật đã nói với đại chúng rằng muốn trọn nên công đức như Phật thì phải tu mười điều rộng lớn như sau:

Một là lễ kính các đức Phật.
Hai là khen ngợi các đức Như Lai.
Ba là rộng sắm đồ cúng dường.
Bốn là sám hối các nghiệp chướng.
Năm là tùy hỷ các công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
Tám là thường học đòi theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi ích chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.

Sau đó nhờ sự thưa hỏi của Thiện Tài Đồng Tử- một vị bồ tát sơ địa, ngài Phổ Hiền đã giảng giải thêm về 10 hạnh nguyện này.

Trong mỗi khóa lễ, chư tăng/ni đều đọc tụng mười hạnh nguyện. Đọc tụng để làm gì? Đọc như một nghi thức hành lễ, đọc xong rồi quên, rồi bỏ đó, rồi ngày mai lại đọc tiếp? Hay đọc để cho thấm vào máu, vào tim để tu theo? Ngày nay Đức Phật không còn nữa cho nên một số điều không còn thực hiện được, như:

- Lễ kính các đức Phật.
-Rộng sắm đồ cúng dường.
-Thỉnh Phật thuyết pháp.
-Thỉnh Phật trụ thế, khoan nhập Niết Bàn.

Vậy chúng ta phải hiểu như thế nào và tu như thế nào nếu muốn tu theo đại hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền?

1) Lễ kính các đức Phật.

Ngày nay Phật không còn nữa cho nên chúng ta kính lễ ai? Chúng ta đảnh lễ tượng Phật. Chúng ta đảnh lễ các tháp miếu thờ Phật. Chúng ta đảnh lễ các di tích mà Phật đã sinh sống, đã đi qua, đã hành đạo hay khi Phật nhập Niết Bàn, đảnh lễ xá lợi Phật.

Chúng ta còn đảnh lễ tất cả các vị hiền-thánh đã tu theo Phật, các thiện tri thức đang hoằng dương chánh pháp.

Chúng ta còn đảnh lễ tất cả những ai có hạnh từ bi, có lòng khoan dung, có ý thiện lành, có tâm bố thí, có hạnh nhẫn nhục. Đảnh lễ những đức tính cao quý này chính là đảnh lễ chư Phật vậy.

Nhưng khi đảnh lễ, theo ngài Phổ Hiền, chúng ta phải nguyện thanh thịnh ba nghiệp Thân-Khẩu-Ý chứ không phải đảnh lễ khơi khơi cho có lệ.

2) Khen ngợi các đức Như Lai.

Theo kinh điển, trong tất cả các pháp hội, trước khi trình bày trước đại chúng, các hàng đại bồ tát, đại sĩ, thiện tri thức đều khen ngợi các đấng Như Lai. Như vậy, khởi đầu các buổi thuyết pháp, thay vì đi ngay vào đề tài, chúng ta nên nói lời tán Phật giống như Đức Phật còn tại thế.

3) Rộng sắm đồ cúng dường.

Ngày nay Phật không còn nữa chúng ta cúng dường ai? Chúng ta cúng dường chư tăng/ni để chư tăng/ni có phương tiện sinh sống và tu học. Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng chư tăng/ni không phải là Phật mà chỉ là đệ tử của Phật còn đang tu học, cho nên chúng ta chỉ cúng dường cho những ai giới hạnh trang nghiêm. Tuyệt đối không cúng dường cho những ai hành tà đạo, xa lìa giới luật và sống đời phóng dật.

Tuy nhiên cúng dường chúng sinh là quan trọng nhất. Chúng ta có rất nhiều cách cúng dường chúng sinh như: Mở trường học, xây nhà thương, giúp đỡ học sinh nghèo, cưu mang trẻ mồ côi, giúp người cô đơn bạc phước, xây cầu, tặng nhà tình nghĩa, cơm chay miễn phí, an ủi người khi hoạn nạn…đều là những hành vi cao quý. Đức Phật dạy rằng hằng thuận vì lợi ích chúng sinhcúng dường chư Phật.

 4) Sám hối các nghiệp chướng.

Chỉ có bậc tri thức, kẻ thiện lương mới thấy mình lỗi lầm. Kẻ hung ác không bao giờ thấy mình sai trái. Sám hối để lương tâm thanh thản và nhắc nhở chúng ta sẽ không còn làm chuyện xấu nữa. Sám hối là một phương thuật để tu hành.

Chúng ta cần sám hối từ lúc chào đời, từ thuở ấu thơ đã làm cho cha mẹ buồn phiền.

Rồi khi cắp sách đến trường chúng ta gây bao ai oán cho thầy/cô.

Rồi khi vào đời chúng ta tạo bao đau khổ cho bạn bè và anh chị.

Chúng ta cần phải sám hối xem trong cuộc đời chúng ta có bao giờ nói lời hung dữ, nói lời lừa dối, nói lời đâm thọc, nói lời vu oan giá họa?

Chúng ta cũng cần phải xét xem chúng ta có hạ nhục ai một cách quá đáng không?

Là người có quyền thế chúng ta đã gây khổ đau nào cho xã hội?

Là nhân viên thi hành luật pháp chúng ta có bao che cho tội phạm, các sòng bài, các ổ mãi dâm các tổ chức buôn bán ma túy khiến gây đảo điên, bất công và băng hoại xã hội?

thương gia, nhà sản xuất chúng ta có lường đảo khách hàng, chế đồ dỏm, bơm hóa chất vào đồ ăn khiến bao người mắc bệnh nan y không thuốc chữa?

Chúng ta cần phải sám hối xem chúng ta có trốn thuế, qua mặt chính quyền, hối lộ để làm ung thối quốc gia?

Là quan tòa xét xử chúng ta có bất công khiến bao người bị hàm oan, kẻ có tội lại được tha, kẻ thật thà lại lãnh án?

nhà tu hành chúng ta phải xét xem chúng talừa đảo tín đồ không?

Chúng ta còn phải sám hối với bao loài vật mà chúng ta đã giết hại. Chúng ta sát hại chúng không phải vì đói mà vì thú vui săn bắn, nhậu nhẹt khoái khẩu hay chỉ vì tính hung ác.

Chúng ta cũng cần phải sám hối vì đã tàn phá bao loài cây cỏ, núi rừng khiến gây cảnh lụt lội, bão tố, cuồng phong, đất đai sụp lở.

Chúng ta không những sám hối với người sống mà cả những người đã chết.

Chúng ta cần phải sám hối tới ngọn ngành. Sám hối ngày đêm cho đến khi không còn gì để sám hối nữa. Như thế mới gọi là sám hối nghiệp chướng.

5) Tùy hỷ công đức.

Chúng ta phải thấy rằng làm thiện nguyện giúp đời là niềm vui. Làm thiện nguyện là nuôi dưỡng tâm lành là nâng cao phẩm  giá. Một đất nước sẽ hùng mạnh nếu có nhiều người tham gia thiện nguyện. Một siêu cường hay đế quốc cũng sẽ xụp đổ nếu con người chỉ biết ích kỷ, sống cho mình.

Bảo nhau làm sạch đường phố là tùy hỷ công đức.

Bảo nhau dọn vệ sinh các bãi rác, biển hồ sông suối, cho công viên khang trang sạch sẽ là tùy hỷ công đức.

Bảo vệ môi trường là tùy hỷ công đức.

Bảo vệ loài tôm cá, bảo vệ rừng để cân bằng sinh thái là tùy hỷ công đức.

Tới chùa làm công quả, dọn dẹp vệ sinh, giữ gìn an ninh trật tự cho các buổi lễ lớn là tùy hỷ công đức.

Của ít lòng nhiều, không cứ là bao nhiêu đem cúng chùa là tùy hỷ công đức. Công đức không tùy thuộc khối lượng khổng lồ mà là sự tăng trưởng tâm lành ngay trong chính con người mình.

6) Thỉnh Phật thuyết pháp.

Ngày nay Phật không còn nữa cho nên chúng ta phải khuyến khích và kính trọng các đạo sư giảng pháp. Khi pháp Phật lan truyền thì đạo còn và Phật vẫn còn ở với chúng ta. Khi Phật pháp suy tàn, không còn ai nhắc nhở tới nữa thì đạo diệt và Phật cũng không còn.

Thế nhưng chúng ta phải biết phân biệt thế nào là tà sư thế nào là đạo sư. Có năm tiêu chuẩn để thẩm định điều người đang nói, đang giảng là chánh pháp. Giảng sư dù có nói gì đi nữa thì nó phải nằm trong Ngũ Pháp Ấn, đó là: Khổ, Vô Thường, Nhân-Quả, Tánh KhôngNiết Bàn. Ví dụ, một người trổ hết tài hùng biện nhưng chỉ nói về phép mầu, Thiên Đàng, Địa Ngục, ban phúc, giáng họa, chỉ tập trung vào cầu nguyện van vái mà không có pháp tu chứng trên bản thân mình... không hề nói tới Khổ Đế, Tập Đế, Diệt ĐếĐạo Đế thì chắc chắn đó là tu sĩ ngoại đạo, không phải đạo sư, không phải là đệ tử của Phật.

7) Thỉnh Phật trụ thế.

Bây giờ Đức Phật đã nhập niết bàn hơn 2000 năm, làm sao thỉnh Phật ở mãi với chúng ta? Thế nhưng muốn Phật vẫn còn ở mãi với chúng ta, có hai cách:

-Hoằng dương chánh pháp. Chúng ta phải làm thế nào để khắp nơi được biết về đạo Phật, hiểu về đạo Phật rồi tu theo Phật.

-Mỗi tăng/ni phải là hình ảnh sống động của Phật. Nếu tăng/ni hư đốn. Thuyết pháp thì nói toàn chuyện trên trời dưới biển mà tham-sân-si vẫn còn, đạo hạnh không có, vướng mắc vào những xấu xa của thế tục…thì đạo suy tàn và Phật cũng chẳng còn ai nhắc nhở tới nữa. Hiện nay có thể Đức Đạt Lai Lạt Mahình ảnh tiêu biểu của Phật Giáo, một đại đệ tử của Phật hoàn hảo về hai phương diện Từ BiTrí Tuệ.Khi nào thấy tăng/ni mà như thấy Phật thì đạo hưng thịnh và Phật vẫn còn ở với chúng ta. Khi nào thấy tăng/ni mà xa lánh thì đạo diệt.

8) Thường học đòi theo Phật.

 Thường học đòi theo Phật là thể hiện những gì Phật dạy nơi chính bản thân mình chứ không phải tối ngày tụng niệm những gì Phật dạy. Đạo Phật không phải là đạo để thuyết giảng, không phải đạo của nghi thức thờ phượng, mà phải thể hiện ngay trên bản thân mình. Sự chứng đắc được hiển lộ qua lời ăn, tiếng nói, cách đi đứng nằm ngồi, cách cư xử, cách hành động lúc nào cũng an nhiên, tự tại, uy nghiêm nhưng từ bi, sống ở trên đời, làm việc đời việc đạo nhưng không vướng mắc chuyện đời. Như thế mới là học đòi theo Phật.

9) Hằng thuận lợi ích chúng sanh

Chúng sinh từ vô thủy đã sống trong tham-dục. Hàng bồ tát tu theo Phật phải nương theo tham-dục của chúng sinh để giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh có thể chỉ đến chùa cầu tài, cầu lộc. Nhưng bồ tát nương theo đó mà giảng về lòng tham và thế nào là tu phước. Chúng sinh có thể đến chùa để xin dâng sao giải hạn nhưng bồ tát nương theo đó mà giảng về nghiệp báonhân quả. Chúng sinh có thể đến chùa vì khủng hoảng tinh thần, bồ tát nhân đó mà giảng về hạnh vô úy. Chúng sinh đến chùa xin làm lễ thành hôn (hằng thuận), dù biết rằng ái dục là cội nguồn của khổ đau và sinh tử tương tục nhưng bồ tát nhân đó giảng về đạo vợ chồng và hiếu đạo. Chúng sinh có thể đến chùa nói rằng, “Con bị ma nhập, quỷ ám”. Bồ tát có thể tụng cho nạn nhân một thời kinh rồi khuyên nạn nhân về nhà tập thể dục, ăn chay, tụng kinh sám hối, niệm Phật. Nếu có thể thực hành Thiền Quán cho tình thần trở nên sáng suốt dũng mãnh…hy vọng có thể qua khỏi. 

Nói tóm lại, người tu hành theo Phật vừa lấy cứu cánhgiải thoát bản thân nhưng cũng lấy mục tiêu giúp đời. Do đó những gì lợi lạc, an vui cho chúng sinh thì bồ tát nguyện làm. Như thế mới gọi là hằng thuận lợi ích chúng sinh.

10) Hồi hướng khắp tất cả.

 Hồi hướng về khắp tất cả là chuyển sự thành công của mình với lòng biết ơn tới tất cả mọi người.

-Lãnh đạo thành công tuyệt đỉnh nhưng phải hiểu đó là sự hy sinh, nỗ lực của cả quốc gia dân tộc mà mình chỉ là người dẫn dắt.

-Vị nguyên soái có chiến thắng lẫy lừng nhưng phải hiểu thành công đó có được là do sự hy sinh xương máu của bao chiến sĩ và sự đóng góp của toàn dân ở hậu phương.

-Một tỷ phú thành công trên thương trường là do công sức của bao nhân viên và tiền bạc của người tiêu thụ.

-Một đứa con thành công trên đời là do công ơn giáo dục của cha mẹ và thầy cô.

-Một nhà văn nổi tiếng là nhờ độc giả. Truyện Kiều mai đây không được dạy trong văn học sử, không còn ai đọc nó nữa thì Truyện Kiều cũng đi vào quên lãng.

 Hồi hướng về khắp tất cả là xả bỏ cái Ngã, là khiêm tốn, là chia xẻ niềm vui với tất cả mọi người. Nói cho cùng ra,  trên cõi đời vô thường này, chẳng có gì là của mình. Hồi hướng về khắp tất cả là một hạnh hy hữuvô cùng cao thượng của Phật Giáo.

Tạm Kết Luận:

Đối với kẻ ngoại đạo hay người không hiểu, thì đạo Phật chỉ là một đạo rất tầm thường, yếm thế. Kinh qua lịch sử, đạo Phật không có một đế chế, không có đạo quân chinh phạt, không có chiến thắng… để khiến nhân loại phải khiếp sợ. Mà sự sợ hãi (khủng bố) lại là một nhân tố rất quan trọng để tin theo một tôn giáo, nhất là tôn giáo thờ thần. Trong khi đó, đệ tử của Phật thì tương chao dưa muối, cho gì ăn nấy, không rượu thịt, chân đi đất, quần áo thì chỉ là thứ y phục của dân nghèo, phẩm phục không sa hoa, lộng lẫy.

Thế nhưng khi nghiên cứutìm hiểu về nó thì đạo Phật là một đạo vĩ đại. Đạo Phật là đạo của Trí TuệTừ Bi. Nó hoàn toàn nhân bản, thực tiễn, không lấy phép mầu của thần linh để làm nền tảng chiêu dụ tín đồ. Tính nhân ái của đạo Phật và hàng đệ tử của Phật bao trùm cả thế giới, không chỉ xót thương loài người và còn cả núi rừng, cây cỏ và thú vật. Đó là một đạo hy hữu của thế gian này.

Theo như hạnh nguyện của ngài Phổ Hiềnngười tu hành không thể thành Phật thành bồ tát, không thể chứng quả nếu không phát nguyện đời đời, kiếp kiếp làm lợi lạc cho chúng sinh, coi chúng sinh như cha mẹ mình. Vậy thì hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền rất phù hợp với thời đại ngày hôm nay. Do đó, ngoài hàng ngũ xuất gia, hàng cư sĩPhật tử tại gia vẫn có thể tu theo hạnh nguyện Phổ Hiền.

Đọc tụng mỗi ngày và tùy duyên, tùy hoàn cảnh mà làm bất cứ việc gì, dù nhỏ bé mà lợi lạc cho đời là tu theo ngài Phổ Hiền. Thế giới này sẽ trở thành Cực Lạc nếu mỗi ngày, mỗi lúc, mỗi nơi có thêm một ngài Phổ Hiền Bồ Tát.

Xin kính lạy ngài Phổ Hiền và tất cả các ngài Phổ Hiền của ngày mai.

Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 29/3/2019)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2708)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2291)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2350)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 3685)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2560)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 2707)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3070)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2142)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2256)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2561)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2794)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2626)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2387)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2392)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 2953)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2387)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2073)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2165)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2263)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2381)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2436)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2478)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 2975)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2319)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 1926)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2438)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 1858)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2550)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2694)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2701)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2458)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2286)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2567)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2207)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 2981)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
(Xem: 2402)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2321)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2192)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 2896)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3785)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2687)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2792)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2385)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2451)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2341)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2098)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2383)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2688)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3681)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant