Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Chỉ Có Một Cội Nhưng Pháp Có Nhiều Cành

14 Tháng Tư 201903:35(Xem: 5190)
Đạo Chỉ Có Một Cội Nhưng Pháp Có Nhiều Cành

ĐẠO CHỈ CÓ MỘT CỘI, NHƯNG PHÁP CÓ NHIỀU CÀNH

Ven. Chân Truyền

Thế mới biết trăm sông rồi cũng đổ về biển, dung hòa một vị mặn của đại dương; muôn pháp cùng đổ vào biển tuệ, thuần một vị giải thoátNhững lời dạy của đức Phật được ghi chép thành Tam tạng kinh điểntrở thành một trong những kho tàng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại

Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật được truyền bá rộng rãi khắp năm châuvàbị ảnh hưởng cũng không nhỏ bởi nhiều nền văn hóa khác. Từ đó, đạo Phật phát triển với các biểu tượng về tôn giáo, về các hình thức nghi lễ, và kể cả những pháp môn tu hành của những khóa tu ở mỗi nơi. Chính vì thế, đạo Phật bị đa dạng hoá về hình thức lẫn nội dung tu tập, thể hiện qua nhiều pháp môn. Như vậy trong thời đại bây giờ, đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn; pháp môn nào là đúng, pháp môn nào là sai? Không có pháp môn nào là đúng và không có pháp môn nào là sai cả. Tại sao? Vì pháp môn tu không có lỗi, mà lỗi ở tại con người làm đúng hay sai mà thôi.

Thuốc không luận mắc rẻ, nếu trị lành bệnh là thuốc hay. Pháp môn không luận thấp cao, nếu đưa người ra khỏi sanh tử, đó là pháp diệu. Một đời thị hiện giáo hóa của đức Bổn sư không ngoài mục đích ấy, muốn cho tất cả chúng sinh đều được thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Hãy nhìn kỹ; Đạo Phật là một tôn giáo xây dựng trên nền tảng trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết chân chính. Tất cả mọi hình thức tôn thờ hướng vào các vật thể thiêng liêng bằng những lễ nhạc đặc thù của mỗi dân tộc nói chung, giáo phái nói riêng, thì không thể nói cái nào đúng hoặc cái nào sai được. Vì nếu đúng với người này sẽ sai với người khác và ngược lại…

Đức Phật là một bậc thầy vĩ đại của toàn nhân loại, nên những lời dạy của Ngài không chỉ nhắm đến một số người (dân tộc) đặc biệt nào, mà là dành cho tất cả mọi ngườiDo đó, trong những lời dạy của Ngài, ta sẽ tìm thấy sự thích nghi với đủ mọi hạng người, mọi lứa tuổi, giúp cho mọi người ai cũng có thể tiếp nhận và làm theo. Chỉ trừ phi chính bản thân người đó vì quá si mê (chấp ngã) đến nỗi từ chối không chịu tiếp nhận mà thôi. Đức Phật gọi những hạng người này là nhất-xiển-đề.

Sao gọi là nhất-xiển-đề? Nhất-xiển-đề là kẻ dứt tuyệt gốc rễ của mọi điều lành, lòng không nương theo bất cứ pháp lành nào, thậm chí chẳng sanh được một niệm lành, nên không thể tiếp nhận được lợi ích từ lời dạy của Phật. Như vậy, ngoài những kẻ nhất-xiển-đề ra, thì còn ai nữa? Hãy xem ai trong chúng ta là người như vậy?

Khi mới bước chân vào đạo, ai cũng thành kính, thiết tha muốn được thấy rõ pháp môn nào dễ tu dễ thành, để đưa mình đến sự giác ngộ giải thoát nhanh nhất. Cũng giống như một tờ giấy trắng, chúng ta được ghi chép theo năm tháng với những gì mình tiếp thu, học hỏi được... từ các bậc thầy và thiện tri thức.

Nên có câu: ‘Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật’. Nghĩa là ngày đầu mình đến chùa, thấy tu theo Phật sao dễ dàng quá, nhưng sau ba năm tu thì không còn thấy Phật nữa. Đúng như trong Kinh Kim Cang Phật nói: “Nhược  sắc kiến ngãâm thanh cầu ngã. Thị nhân hành tà đạoBất năng kiến Như Lai.” Nghĩa là: Nếu do sắc thấy ta. Do âm thanh cầu ta.Người ấy hành tà đạo. Không thể thấy Như Lai.

Câu nhứt niên Phật tại tiền: Năm đầu khi mới tu, tâm Phật, lời nói đầy lòng từ bi, ái ngữ, niềm nỡ, ngôn từ xây dựng đoàn kết yêu thương, đùm bọc, chở che, chân thành với công việc, cần mẫn chắt chiu trong công việc phụng sự Tam Bảo. Không một lời chê trách, dèm pha, phiền hà, chia rẽ, bất hòa, hay cố chấp.

Câu nhị niên Phật thăng thiên: Đến năm thứ 2 thì tâm Phật bắt đầu xa dần.  Trong giai đoạn này nếu chúng ta không gặp được Thầy hay bạn tốt để gần kề sách tấn, chỉ bày chia sẻ, đưa đường chỉ lối đúng chánh pháp, hợp thời cơ, ứng dụng Phật pháp hằng ngày trong đời sống, đúng nơi, đúng chỗ, đúng người, thì chúng ta rất dễ bị lôi cuốn theo dòng nghiệp vốn sẵn có của mình, bản tánh lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng… Si mê bắt đầu trổi dậy, mê muội bắt đầu dẫn dắt kết bạn với ma (bạn dữ). 

Lời nói bắt đầu thiếu hẳn sự trung thực, bóp méo, xuyên tạc, chánh ngữ không còn nữa với người có Bồ Đề tâmNhững sở tâm, sở đoản, ngã chấp, ngã sitập khí đã dành chỗ ngự trị trong thân ô trược này rồi.

Câu tam niên bất kiến Phật: Đến năm thứ 3 thì không còn thấy Phật nữa. Khi Phật đã rời xa nghìn dặm, thì ái ngữ, lợi hành, đồng sự đâu còn nữa? Bấy giờ mọi người tha hồ tung hoành, vung vãi từ lời nói đến việc làm đều thiếu hẳn lòng từ bi của tâm Phật. Sáu nẻo luân hồi cũng bắt nguồn từ đây mà kết tụ và lôi kéo ta đi, và cuối cùng ta trở thành kẻ nhất-xiển-đề thứ hai. (Nếu không nói là xiển niển luôn!)

Tất cả những ý này muốn nói lên điều gì? Những ngụ ý này, nhằm nhắc nhỡ hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia, nên tránh xa những điều dễ bị mắc phải, để Bồ đề tâm luôn vững mạnh như sơ phát tâm thuở ban đầu, để tiếp tục dấn thân trên bước đường tu họchộ trì chánh pháp.

Sở dĩ người tu (xuất giatại gia) ở thời mạt pháp ít được hiệu nghiệm, ấy bởi do tín, nguyện, hạnh không chuyên, nên chưa thể dẫn đến hạnh lành để trở về cõi tịnh. Nếu chúng ta đang cùng nhau tu tập nhân thanh tịnh, thì quả cũng phải thanh tịnh, nếu không xét kỹ chỗ sơ phát tâm, làm sao biết rõ đường lối nào thoát khổ.

Chúng ta cần phải đầy đủ lòng tin chân thật. Nếu khônglòng tin chân thật, tuy ăn chay, ngồi thiền, niệm Phật, trì chú, phóng sinh, tu phước, chỉ là người lành ở thế gian, chỉ hưởng phước báo cõi trời, cõi ngườiLúc hưởng phước vui thì tạo nghiệp, đã tạo nghiệp ắt phải rơi vào nẻo khổ. Dùng cái nhìn chân chính mà xét về điều này, chỉ hơn hạng nhất Xiển-đề một chút thôi.

Nói đến lòng tin nghĩa là:

Thứ nhất phải tin: Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không khác biệt. Ta là Phật chưa thành, đức Thích Ca là Phật đã thành. Tánh giác không hai. Ta tuy điên đảo mê lầm nhưng tánh giác chưa từng mất. Ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, nhưng tánh giác chưa từng động. Nên nói: Đừng xem thường người tu chưa chứng ngộ. Chỉ một niệm soi lại liền đồng với bản đắc như lai.

Thứ hai phải tin: Ta là Phật lý tánh, Phật danh tự. Đức Thích Ca tuy là Phật đã giác ngộ. Tánh tuy không hai, nhưng ngôi vị thì cách xa như trời với vực. Nếu không chuyên tâm tu trì, cầu sanh về cõi Tịnh, thì ắt phải theo nghiệp dữ lưu chuyển, chịu khổ vô cùng! Đây gọi là báo thân lưu chuyển trong sáu đường, chẳng gọi là Phật, mà gọi là chúng sinh.

Thứ ba phải tin: Ta dù nghiệp sâu chướng nặng, phước mỏng tội dày, sống lâu nơi cảnh khổ, nên vẫn là chúng sinh. Phật tuy muôn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười muôn ức cõi, cũng là đức Phật trong tâm chúng ta. Đã là tâm tánh không hai, tự nhiên đạo cảm ứng qua lại. Sự thiết tha của ta ắt có thể cảm. Lòng từ bi của Phật ắt có thể ứng. Như đá nam châm hút sắt, việc nầy không thể nghi ngờĐây gọi là: Phật nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con. Thì mẹ contrải qua nhiều đời cũng chẳng xa nhau.

Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật, trong hiện tại, tương lai nhất định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa. Đủ lòng tin chân thật như trên, dù chút phước điểm lành như hạt bụi, mảy lông, đều có thể hồi hướng tây phương trang nghiêm tịnh độ. Huống chi trì trai giữ giới, bố thí, phóng sinh, tụng kinh điển Đại thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, lẽ nào không đủ để làm hành trang để về cõi Tịnh độ hay niết bàn sao?

Chỉ e lòng tin không đủ chân thật, mới khiến đắm chìm nơi ba cõi sáu đường. Cho nên, trong việc tu hành hiện nay, không có bí quyết gì khác là trong hai mươi bốn giờ củng cố thêm ba niềm tin (tam bảo) chân thật này, thì tất cả sẽ có câu trả lời cho việc tu hành của chúng ta.

Niềm tin căn bản trong đạo Phậtniềm tin Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin mình có thể đạt đến chỗ toàn chân, toàn mỹgiác ngộ giải thoát. Một khi đã có niềm tin nơi Tam bảo là những gì được xem nhưchân lý, là thánh thiện thì chúng ta phải phấn đấu hướng đến những gì tốt đẹp nhất, để đạt được mục tiêu an lạc hạnh phúc trong hiện tại và tương lai, giống như con thuyền đã xác định phương hướng, và bến đỗ của nó.

Người tu hành nói chung trên bước đường tu học cũng giống như một con thuyền đang lướt sóng trên biển, tức là phải gặp nhiều khó khăn gian khổ, chông gai thử thách. Nhưng khi con thuyền đã xác định rõ phương hướng, biết đích xác đâu là bờ, đâu là điểm đến, thì chỉ còn nhờ vào sự nỗ lựctài năng khéo léo của bản thân mình mà thôi. 

Người Phật tử cũng vậy, một khi đã có niềm tin vững chắc vào Tam bảo, vào tự thân, đã thấy rõ mục tiêu hướng đến, bằng sự tinh tấn nỗ lực sẽ mau chóng thành tựu, đạt được lý tưởng của mình. Nếu niềm tin không vững chắc, hoặc tin mà không có trí tuệ, thì niềm tin ấy dễ dàng bị lung lay bởi sự tác động của hoàn cảnh hay ngoại đạo, tà giáo… kéo đi biệt tích.

Đúng là; cái khổ của một con lừa, con lạc đà chở nặng chưa phải là khổ, cái khổ lớn nhất của con người chính là không biết chọn cho mình con đường nào để đi, và điểm nào để đến.

Đức Phật dạy chọn pháp tu (trạch pháp) đứng hàng đầu. Mục đích tu học Phật là gì? Là lìa khổ được vui. Tức là phải nhanh chóng lìa xa biển khổ, và phải thành tựu được cái vui cứu cánh, cái vui viên mãn. Muốn được vậy ta phải chọn pháp môn tu hợp với;

a)     Căn tánh của chính mình

b)     Trình độ của chính mình

c)      Hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình

d)     Nguyện vọng của chính mình

Phật nói tuy nhiều pháp môn tu, nhưng mục đích chính cũng chỉ có hai chữ “giải thoát”, tức là làm sao chúng ta không bị phiền não chi phối, quấy rầy. Tu pháp môn nào cũng nhằm giải quyết như vậy là chính yếu.Vì vậyhọc pháp môn này tu mà chê pháp môn khác là sai lầmChọn pháp môn thích hợp với mình áp dụng để được giải thoát, nghiệp chướng nhiều đời của mình được lắng yên. Được chừng đó thôi, thiết nghĩ cũng tạm đủ để giúp chúng ta tiến xa trên lộ trình giác ngộgiải thoát.

Phật dạy rằng: “Giáo pháp (pháp môn tu) như chiếc bè để sang sông, không phải để ôm giữ. Phải hiểu; Chánh pháp còn xả bỏ huống hồ là phi pháp”. Hay: “Giáo pháp như ngón tay để chỉ mặt trăng. Muốn thấy được mặt trăng, nên biết ngón tay để chỉ mặt trăng tuyệt đối không phải mặt trăng (nó chỉ là phương tiện)”. Cho nên, tất cả mọi pháp môn tu đều nhằm chỉ bày chân lý của đạo Phật, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay là phương tiện để hướng đến mặt trăng, mà mặt trăngtượng trưng cho ánh sáng của chân lýMục đích tối thượng của người tu hành là đoạn tận khổ đau, đạt được an lạc, giải thoátTrong kinh điển, Phật đã chỉ dạy rất nhiều pháp môn tu tập khác nhau, thích hợp với từng hạng người. Chính nhờ có sự phong phú đa dạng này mà đạo Phật truyền đến đâu cũng mang lại lợi lạc cho mọi người đến đó.

Nói đến những pháp môn tu trong đạo Phật ví như dòng suối trong mát kia, chỉ cần uống vào từng ngụm nhỏ cũng có thể giúp chúng ta xua tan đi cơn khát cháy, đừng như kẻ ngu si trong câu chuyện dưới đây, chỉ vì nhìn thấy nước suối quá nhiều mà không chịu uống! Điển hình trong kinh điển Phật giáo có ghi lại một câu chuyện mà đức Phật đã dùng để minh họa cho việc tiếp cận với giáo pháp, và các pháp môn tu.

Có một người đang cơn khát cháy và tìm được đến một dòng suối mát. Nhưng anh ta cứ quỳ mãi bên dòng suối mà không uống ngụm nước nào. Mọi người thấy lạ liền đến hỏi lý do, người ấy đáp: “Nước suối này nhiều quá, tôi không thể nào uống hết. Vì thế mà tôi không uống.” Ai nấy nghe vậy đều bật cười trước sự ngu si của người ấy.

Chúng ta khi học kinh điển của Phật giáo hoặc tu theo những pháp môn mà ta yêu thích, thì cũng nên ghi nhớ câu chuyện ngụ ngôn này, để không trở thành kẻ ngu si như người khát nước trong câu chuyệnĐơn giản chỉ cần chọn lấy một pháp môn nào tu tập nào thích hợp nhất với bản thân ta, và tinh tấn tu tập thì chắc chắn sẽ có được sự lợi ích. Bằng như chỉ xem qua mà không tự mình tu tập thì cũng chẳng khác nào như kẻ ngu si kia, dù ở bên dòng suối cũng chẳng thể làm nguôi đi cơn khát. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 767)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 794)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 993)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 749)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 759)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1289)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1169)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1152)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1033)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1125)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1238)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1173)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1156)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1744)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1145)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1287)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1172)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant