Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Im Lặng Hùng Tráng

24 Tháng Tư 201906:31(Xem: 5371)
Im Lặng Hùng Tráng

IM LẶNG HÙNG TRÁNG

TN Huệ Trân

                                       

 IM LẶNG HÙNG TRÁNG

          Một lần, tại ngoại ô thành Tỳ-Xa-Ly, nơi có một vườn soài rộng lớn mà kỹ-nữ Ambapali đã cúng dường để tăng-đoàn của Đức Thế Tôn làm chỗ an cư tu học, y-sỹ Kỳ-Bà, con trai của bà và vua Tần-Bà-Xa-La đã hướng dẫn vua A-Xà-Thế đến gặp Đức Thế Tôn.

          A-Xà-Thế từng là vị vua tàn bạo, vô luân, đã giết phụ hoàng để soán ngôi vua. Nhưng làm vua không bao lâu thì sự ăn năn, hối hận về những hành vi bất hiếu, ác độc của mình đã dằn vặt nhà vua tới mức rối loạn tinh thần trong những cơn bệnh tâm thần trầm trọng mà những y-sỹ tài danh khắp nước đều bó tay. Cuối cùng, nhà vua nghe đến danh tiếng vị y-sỹ trẻ Kỳ-Bà. Khi diện kiến nhà vua và nghe vua kể về bệnh trạng, y-sỹ Kỳ-Bà đã nói ngay:

          - Chỉ có một người duy nhất có thể chữa lành bệnh cho bệ hạ chứ không một thầy thuốc nào trên thế gian làm được. Người đó là sa-môn Gotama, bậc giác ngộ toàn bích. Ngài đang cùng tăng đoàn an cư tại vườn soài, cách đây không xa.

          Nghe vậy, vua A-Xà-Thế nghẹn ngào:

          -Sa-môn Gotama ư? Làm sao trẫm dám đến gặp sa-môn khi bao tội lỗi của trẫm, sa-môn đều biết rõ!

          Y-sỹ Kỳ-Bà trấn an:

          - Đức Thế Tôn từng dạy rằng, trên đời có hai hạng người đáng quý: thứ nhất, là những người chưa từng phạm tội và thứ hai là những người đã phạm tội mà biết ăn năn hối cải. Bệ hạ đã thực tâm sám hối chưa?

 

          Trên đường tới vườn soài, vua A-Xà-Thế vững tin nơi Chánh-pháp, dù chưa từng được trực tiếp nghe; nhưng càng đến gần địa điểm, nhà vua càng hồi hộp, và khi vượt qua cổng vườn soài, nhìn thấy dưới khắp các gốc cây, các bụi trúc, bên các giòng suối, các bờ cỏ lau …. đâu cũng có bóng dáng các vị khất-sỹ im lặng tọa thiền. Trên một ngàn người mà không một tiếng động!

          Râu tóc nhà vua chợt dựng đứng lên vì sợ hãi!

          Bao sức mạnh của quyền uy đều sụp đổ trước sức mạnh của sự Im-Lặng-Hùng-Tráng.

          Đây là sự Im-Lặng-Hùng-Tráng của Thiền-Định.

 

          Lại một lần, trên đường trở về tu viện Trúc Lâm, Đức Thế Tôn đi qua một thành phố mà các cửa nhà đều đóng kín. Hỏi thăm thì biết là tên sát nhân nổi tiếng Angulima đang có mặt nơi thành phố này. Theo tin đồn thì hắn ta có lời nguyền là sẽ hoàn thành một sâu chuỗi đủ 100 vành tai người, nên gặp ai là hắn xẻo tai nạn nhân ngay!

          Đức Thế Tôn điềm nhiên đi vào thành trước lời can gián của dân chúng.

          Quả nhiên, đi một đỗi thì nghe tiếng chân chạy rầm rập và tiếng quát hung dữ:

          - Đứng lại!

          Như không nghe thấy, Đức Thế Tôn vẫn điềm nhiên chậm bước.

          Tiếng bước chân đuổi theo dồn dập hơn. Và tiếng quát hung bạo hơn:

          - Người kia! Ta bảo ngươi đứng lại!

          Đức Thế Tôn vẫn thong thả như đi thiền hành ở nơi bình an vô sự. Bấy giờ, tên sát nhân có lẽ không còn kiên nhẫn nổi, chạy ào qua Đức Thế Tôn rồi vung dao, chống nạnh chặn ngang mặt. Hắn hét lên:

          - Ngươi có điếc không? Ta bảo ngươi đứng lại mà sao ngươi vẫn đi?

          Lúc đó Đức Thế Tôn mới mỉm cười, nhìn thẳng vào đôi mắt tóe lửa của Angulina mà dịu dàng nói rằng:

          - Này Angulina, ta dừng lại rồi đó chứ. Từ lâu lắm, ta đã dừng tâm sân hận, chuyển hóa tham sân si thành Từ Bi Hỷ Xả. Ta đã dừng rồi, chỉ có anh là còn đang bước mà thôi.

          Angulina há hốc miệng nhìn vị sa-môn nhu hòa trước mặt. Vị này vừa gọi đúng tên hắn, có nghĩa là đã biết rõ hắn là tên sát nhân đang làm cả thành phố run sợ. Vậy mà sao vị này không sợ? Không những thế, vị này đang nhìn hắn bằng cái nhìn yêu thương, tha thứ, cái nhìn hắn chưa từng thấy trong đời, cái nhìn chan chứa vị tha như tia nắng ấm mặt trời đang làm trái tim lạnh ngắt giá băng của hắn từ từ tan chảy!

          Người này là ai mà tỏa sáng sức mạnh kỳ diệu khiến bàn tay cầm dao run rẩy? Thôi rồi, chắc đây là sa-môn Gotama, vị đạo sỹ hắn từng nghe danh tiếng nhưng lòng vẫn thầm khinh nhờn!

          Con dao nơi tay rơi xuống mặt đường, vang lên một âm thanh khô lạnh. Tên sát nhân hung bạo đã quỳ sụp trước vị sa-môn khắc khổ lúc nào không hay. Và, vẫn là sự im lặng nhiệm mầu, vị sa-môn đưa tay đỡ tên sát nhân đứng dậy.

          Đây là sự Im-Lặng-Hùng-Tráng của Vô Úy.

 

          Tại Kỳ-viên-thọ, trong một buổi pháp thoại dành cho cả hai giới xuất giatại gia nên thính chúng tham dự rất đông. Giữa buổi pháp, Đức Thế Tôn bỗng im lặng, rồi nhẹ nhàng đưa một bông sen lên. Đại chúng xôn xao không hiểu ý Đức Thế Tôn muốn dạy gì! Duy chỉ có một người, nhìn bông sen và mỉm cười an lạc. Người đó là một, trong mười Đại-đệ-tử của Đức Thế Tôn. Người đó là Đại-đức Ma Ha Ca Diếp, đã chứng nghiệm được bài pháp vô ngôn về sự tiếp xúc với hiện tại nhiệm mầu.

          Đây là sự Im-Lặng-Hùng-Tráng của Chánh-pháp-nhãn-tạng.     

 

          Hơn 2600 năm trước, Đức Thích Ca Mâu Ni đã thị hiện đản sanh, đã tận dụng thời gian hiện hữu nơi cõi ta-bà để thuyết giảng Đạo Giác-Ngộ, giúp chúng sanh phá vỡ màn vô minh che phủ mà nhìn ra Bản Lai đích thực của mình. Chỉ khi thấy được Phật-tánh nơi mình mới thoát khỏi sinh tử luân hồi vì Phật-tánh đó vốn hằng hữu, vô sinh bất diệt.         

          Tùy căn cơ chúng sanh, Đức Phật đã bằng muôn vàn phương tiệnthuyết giảng, nhưng những bài giảng vô ngôn mang sức mạnh bất khả tư nghì, khi thấm sâu vào lòng người, mới mang đến những lợi ích to lớn. Nhất là những người nắm vận mệnh muôn dân, biết áp dụng, sẽ đem lại sự thanh bình thịnh trị trên mặt đất hỗn tạp đầy tai ương này.

 

          Vị Thủ-tướng Ấn Độ Mahatha Gandhi chẳng phải tự nhiên được nhân loại tôn là Thánh, nếu ngài không thấm nhuần giáo pháp từ bi, không hiểu được sức mạnh vô song của sự Im-Lặng-Hùng-Tráng qua hành trình hoằng pháp của Đức Phật, mà hướng dẫn toàn dân trong cuộc tranh đấu bất bạo động. Giá trị của chân lý vô ngôn được thiền-sư Tăng Triệu diễn tả:

          “Thánh trí vốn vô trí, mà muôn vàn phẩm loại đều được soi tỏ. Pháp thân vốn không hình tượng, nhưng lại ứng hiện theo từng hình tượng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá” (*)

          Khi xưa, bằng liễu ngộ sức mạnh của sự Im-Lặng-Hùng-Tráng, Mahatha Gandhi đã đưa toàn dân Ấn ra khỏi sự đọa đầy của bạo lực.

          Còn ngày nay?

          Để nhớ ơn Đức Phật đã vì những đau khổ của muôn loài mà thị hiện đản sanh, có trễ quá không, để nhân loại ngày nay áp dụng những bài pháp vô ngôn vào đời sống hiện tại mới mong chấm dứt máu xương vô tội và thăng hoa kiếp nhân sinh?

 

                                                            

TN Huệ Trân  (Như-Thị-Am,một chiều cuối hạ) 

(*) Huyền Thoại Duy Ma Cật- Thích Tuệ-Sỹ 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1204)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 932)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1253)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 717)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 688)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 761)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 770)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 753)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 748)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 901)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 782)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 941)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 944)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 872)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 876)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 813)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 962)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 895)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 835)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 923)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 846)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 903)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 837)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1099)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 867)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 951)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1098)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1571)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1110)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1182)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1056)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 920)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 867)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 912)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 758)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1438)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1314)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1276)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1215)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1332)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1281)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1419)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1297)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1163)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1206)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1265)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1250)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1363)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant